TIẾC NUỐI THỦ THIÊM
Chiều đi ngang bến Bạch Đằng thấy trống trải thiêu
thiếu một cái gì đó… A phải rồi, phà Thủ Thiêm đã ngừng hoạt động
hơn nửa tháng nay. Còn nhớ một ngày đi làm
về thấy hai con gái có gì buồn buồn. Gặng hỏi, con gái nói: tụi con
ra bến Thủ Thiêm, hôm nay là chuyến phà cuối cùng mẹ ạ… Rồi chúng
cho tôi xem những bức hình chụp con phà đang rời bến phía Sài Gòn, ra
giữa sông rồi cặp bến phía Thủ Thiêm. Gương mặt hành khách, gương mặt
những người làm việc trên phà đều lặng lẽ… Nhiều người dân Sài Gòn
cũng đến bến Thủ Thiêm để chia tay với quá khứ gần trăm năm của
những chuyến phà cũng như trước đây đã từng chia tay với những “con đò Thủ Thiêm” qua lại trên sông này hàng
trăm năm.
Bây giờ nối đôi bờ sông Sài Gòn từ quận Nhất qua
bán đảo Thủ Thiêm đã có đường hầm dưới lòng sông, mai mốt còn có
thêm những chiếc cầu hiện đại nữa. Từ “con đò Thủ Thiêm” đến chuyến
phà Thủ Thiêm, rồi đường hầm rồi cầu… thành phố lớn lên rộng ra
từng ngày. Thành phố càng hiện đại ký ức quá khứ bằng vật chất ngày càng nhạt nhòa… may
chăng chỉ còn những tên gọi, địa danh gợi nhớ một thủa có những
chuyến đò, chuyến phà qua sông. Những cây cầu mới qua sông Tiền sông
Hậu như cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, cầu Rạch Miễu… ai đi qua đó mà
không nhớ những bến phà nổi tiếng một thời ở miền Tây Nam bộ?
Trên sông Sài Gòn giờ đây bến phà Thủ Thiêm không
còn, đường hầm thay thế cũng không mang tên “hầm Thủ Thiêm” như vẫn
quen gọi từ khi khởi công đến ngày hoàn thành (1). Nhắc đến hầm Thủ
Thiêm thì ai ai cũng hiểu đó là công trình kết nối khu nội thành hiện hữu
với khu đô thị mới Thủ Thiêm, biểu tượng của
tương lai thành phố. “Thủ Thiêm” không chỉ là một địa danh mà
còn có ý nghĩa như thế.
“Bắp non mà nướng
lửa lò
Đố ai ve được con
đò Thủ Thiêm”
Câu ca dao quen thuộc giờ còn ai nhớ đến khi vùng
Thủ Thiêm với làng quê dọc ngang kinh rạch giờ đã giải tỏa gần hết.
Bên bờ phía sài Gòn mấy ai còn nhớ đến Cột cờ Thủ Ngữ ngay gần
bến phà Thủ Thiêm? Mai này thành phố sẽ có cầu qua sông Nhà Bè thay
cho phà Bình Khánh, sẽ còn nhiều cây cầu thay thế những chuyến phà,
những bến đò qua những con sông, rạch, tắt… Đừng xóa bỏ tên những
bến đò, bến phà, tên những dòng sông con rạch mà thay bằng những tên
gọi ra đời từ văn bản “hành chính”. Dấu tích vật chất có thể bị
phá bỏ, làm mất đi nhưng địa danh dân gian không dễ biến mất, đơn giản
vì nó đã được lưu giữ và di truyền qua nhiều thế hệ cư dân thành
phố, trở thành di sản văn hóa phi vật thể. Hệ thống địa danh giúp ta
nhận ra lịch sử, đặc trưng văn hóa một vùng đất, thể hiện tâm thức
lối sống cư dân và có khi là sự ghi nhận dấu ấn một con người của
vùng đất đó… Địa danh tồn tại trong ký ức của từng người dân, góp
phần làm nên lịch sử văn hóa của thành phố.
Sài Gòn giờ đã mất nhiều tên chợ, tên hẻm, tên
khu vực, tên bến phà cây cầu cổ xưa… Có khi nào sau này muốn tìm
hiểu về Sài Gòn xưa qua địa danh lại phải tìm đến những người Sài
Gòn xa xứ…?!
(1)
Hội đồng nhân dân TP quyết định đặt tên là “Hầm qua sông Sài Gòn”
(Viet-Studies ngày 20.1.2013)
GIẢI
TỎA CÁC CÔNG TRÌNH TÔN GIÁO LÂU ĐỜI LÀ KHÔNG THỎA ĐÁNG
Từ đô thị đến thôn quê,
ở đâu các công trình tôn giáo tín ngưỡng như đình, chùa, đền, miếu hay hội
quán, nhà thờ, tu viện… đều là trung tâm sinh hoạt tinh thần của cộng đồng. Đó
còn là nơi tổ chức những hoạt động công ích như từ thiện, nuôi dưỡng người bệnh
tật, người già và trẻ mồ côi… Đặc biệt trong khu vực của nhà thờ hay tu viện đều
có trường học, vừa dạy theo chương trình giáo dục chung vừa giảng dạy giáo lý
cho con em giáo dân. Do đó, cộng đồng dân cư ở đâu cũng gắn bó với các cơ sở
tôn giáo tín ngưỡng. Hình ảnh kiến trúc tôn giáo trở thành biểu tượng của quê
hương bản quán như mái đình, tháp chuông cũng như dòng sông, bến nước… Nhiều
công trình tôn giáo trở thành niềm tự hào của cộng đồng do tuổi đời lâu năm và
những giá trị kiến trúc nghệ thuật.
Sài
Gòn là một đô thị đa dạng về văn hóa, trong đó những kiến trúc kiểu phương Tây
gồm công sở, biệt thự, công trình công cộng và nhất là công trình Công giáo như
nhà thờ, tu viện, trường học… đã trở thành những điểm nhấn trong cảnh quan đô
thị từ khu trung tâm đến vùng ven và ngoại ô. Dù nhiều cơ sở tôn giáo được thiết
kế và chỉ đạo do kiến trúc sư người phương Tây, nhưng được xây dựng từ chính
công sức và tiền của của cộng đồng người Việt Nam sinh sống trong từng giáo xứ,
thậm chí có công trình xây dựng và được gìn giữ qua nhiều thế hệ.
Riêng
về công giáo, trải qua nhiều thăng trầm, đổi tên, tách ra rồi lại sáp nhập, hiện
nay Tổng giáo phận Sài Gòn có 23 giáo họ đã được trên 100 năm thành lập: Chợ
Quán – 1723, Chí Hòa – 1771, Thánh Gẫm (Gò Công – 1848), Xóm Chiếu – 1856, Chợ
Đũi (Huyện Sĩ) và Thủ Thiêm – 1859, Tân Định – 1861, Cầu Kho và Bà Điểm – 1863,
Phanxico (Cha Tam) – 1865, Chợ Cầu – 1869, Vĩnh Hội – 1875, Thủ Đức – 1879, Tân
Quy và Tắc Rỗi – 1880, Bình Chánh – 1884, Thị Nghè và Gò Vấp – 1888, Long Đại –
1990 và Hạnh Thông Tây – 1910[1]. Cùng với sự hình thành các giáo xứ là những
công trình kiến trúc nhà thờ, tu viện… qua hơn một thế kỷ đã trở thành một bộ
phận quan trọng của di sản đô thị Sài Gòn – TPHCM.
Theo
một số tài liệu lịch sử thì “từ những vùng lân cận các nữ tu chạy loạn tụ họp lại,
thành lập cộng đồng nữ tu dòng Mến Thánh Giá tại Thủ Thiêm vào năm 1840”. Thủ
Thiêm là một vùng quê ven sông Sài Gòn.
Theo người dân địa phương, ban đầu nơi này được gọi là Thổ Thêm do vùng đất bồi mỗi ngày một cao thêm nhờ sông Sài Gòn. Dần
dần người ta đổi thành Thủ Thiêm, đồng
âm đầu với những vùng lân cận như Thủ Dầu Một, Thủ Đức còn từ Thêm thì đọc trại ra là Thiêm. Giáo họ Thủ Thiêm ra đời vào giữa
thế kỷ 19, lúc này nơi đây vẫn là một vùng hoang vu với rừng cây ngập mặn, “sấu
gầm cọp um”, dân cư thưa thớt.
Sau
khi Pháp chiếm thành Gia Định, giáo dân ở các nơi trong vùng Gia Định, Biên
Hòa… lại kéo đến Thủ Thiêm sinh sống. Làng quê hình thành, dần dần có đình,
chùa, có nhà thờ… Cho đến nửa cuối thế kỷ 20 tuy chỉ cách trung tâm thành phố một
“con đò Thủ Thiêm” nhưng giữa hai bên là một khoảng cách quá xa về đời sống vật
chất.
Hơn mười năm nay bán đảo
Thủ Thiêm được biết đến như một đô thị hiện đại tương lai của TP.HCM. Nhờ vị trí độc đáo ở đối diện và
chỉ cách khu vực lõi trung tâm lịch sử quận Một một đoạn ngắn của sông Sài
Gòn, bán đảo này được chọn là trung tâm hành chính – tài chính mới, nhằm đáp ứng
nhu cầu phát triển của một thành phố 10 triệu dân cùng lượng lớn người vãng
lai. Vì vậy các dự án giao thông, hạ tầng, trung tâm thương mại tài chính,
trung tâm văn hóa như bảo tàng, nhà hát, sân vận động và vô số dự án chung cư,
khu dân cư cao cấp… đã hình thành. Đi trước các dự án này là quá trình đền bù
giải tỏa những xóm làng lâu đời, ruộng vườn, trong đó có các công trình tôn
giáo tín ngưỡng.
Chưa biết tổng thể dân
cư mới của đô thị Thủ Thiêm có nguồn gốc từ đâu, nhưng ở bất cứ cộng đồng nào,
kể cả đô thị mới thì người dân cũng
cần có nơi thờ tự để thực hiện quyền tự do tín ngưỡng của mình. Vì vậy, trong quy hoạch đô
thị mới việc giải tỏa các công trình tôn giáo tín ngưỡng lâu đời là không thỏa
đáng, vì ngoài chức năng phục vụ đời sống tinh thần của cộng đồng, những công
trình đó luôn chứa đựng giá trị lịch sử - văn hóa. Cư dân Thủ Thiêm do bị giải
tỏa mà phải đến sinh sống ở nơi khác thì chính những công trình văn hóa như đình, chùa, nhà thờ… ở nơi chốn cũ là biểu tượng nối liền quá khứ
và hiện tại của họ. Thành phố mới không trở nên xa lạ đối với những người đã hy
sinh nhà cửa, ruộng vườn và cả một phần cuộc đời của họ cho sự ra đời của thành
phố mới. Đổi lại, việc gìn giữ một số công trình văn hóa lâu đời ở đô thị mới sẽ
nuôi dưỡng được ký ức lịch sử của vùng đất này. Đồng thời, những dấu tích cổ
xưa của khu đô thị mới cũng mang lại cho cộng đồng dân cư mới cảm giác thân thiện,
tạo ra sự gắn bó và thái độ quý trọng một vùng đất có lịch sử, biết ơn những
người từ đây đã ra đi để xây dựng đô thị mới. Những dấu tích lịch sử - văn hóa
chính là sợi dây nối liền các cộng đồng dân cư qua nhiều thời kỳ trên một vùng
đất.
“Nhà
thờ không phải là một công trình nghệ thuật vị nghệ thuật, được xây dựng chỉ để
mọi người chiêm ngưỡng, mà trước tiên là ngôi nhà của cộng đồng ở một địa
phương có một lịch sử nhất định, và sự gắn bó giữa cộng đồng giáo xứ với ngôi
nhà của chính mình, là cái hồn của loại kiến trúc được gọi là nhà thờ, ngôi nhà
đã từng chứng kiến, ghi nhận – và còn hơn cả chứng kiến và ghi nhận, – những buồn,
vui, hy vọng, trông chờ kèm theo mỗi khoảnh khắc của cuộc sống, của cộng đồng
và của từng tín hữu khi chào đời, lớn lên, trưởng thành và cả sau khi đã nhắm mắt
xuôi tay… Nhà thờ là phần không nhỏ của ký ức nơi mỗi tín hữu Công giáo.”[2]
Chính vì vậy, chính quyền, các nhà đầu tư, nhà
quy hoạch cần có sự hiểu biết và tôn trọng vấn đề này trong mọi quy hoạch kinh
tế - xã hội. Các công trình như nhà thờ, dòng tu, chùa chiền cần đưa vào khu vực chỉnh trang
cho phù hợp với quy hoạch chung, không nhất thiết phải giải tỏa, đặc biệt là những
công trình có lịch sử lâu đời đã được ghi chép lại. Một
con đường, một hàng cây, một ngôi nhà cổ… có thể không sánh bằng một trung tâm
thương mại hoành tráng nhưng trung tâm thương mại không tồn tại chỗ này có thể
xuất hiện chỗ khác còn ký ức thì không phải nơi đâu cũng lưu giữ được.
Để phù hợp hơn với cảnh quan đô thị mới, việc
bảo tồn, trùng tu nhà thờ, đình chùa cổ
xưa đã bị hư hỏng hay xuống cấp là nhu
cầu chính đáng và cấp
thiết. Là những công trình kiến trúc có lịch sử lâu đời, có giá trị
văn hóa tinh
thần gắn bó
với một vùng đất, nếu chính quyền có
chính sách và phương pháp phù hợp thì cộng đồng nói chung và cộng đồng tôn giáo
nói riêng sẽ chung tay góp công góp của, để mang lại cho thành phố mới vẻ đẹp từ
chiều sâu lịch sử - văn hóa và nâng cao hơn giá trị kinh tế từ đó và nhờ đó.
"Sài Gòn giờ đã mất nhiều tên chợ, tên hẻm, tên khu vực, tên bến phà cây cầu cổ xưa… Có khi nào sau này muốn tìm hiểu về Sài Gòn xưa qua địa danh lại phải tìm đến những người Sài Gòn xa xứ…?!"
Trả lờiXóaĐau chảy nước mắt !
Cám ơn sự đồng cảm của anh, chị!
Trả lờiXóa