LỊCH SỬ, SỰ THẬT VÀ SỬ HỌC - GS. Hà Văn Tấn


Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Hà Văn Tấn, người được mệnh danh là Lê Quý Đôn của thế kỷ 20, người cuối cùng trong tứ trụ của sử học Việt Nam, vừa từ trần vào 21h02 ngày 27-11 tại Hà Nội.


“Ai ai đều đã bằng câu hết
nước chẳng còn có Sử Ngư”
Đó là hai câu thơ trong bài thơ cuối cùng của mười bốn bài “mạn thuật” mà Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta. Thật là cay đắng khi mà mọi người uốn cong như lưỡi câu, và chẳng còn ai nói lên sự thật nữa, chẳng còn ai như Sử Ngư nữa. Sử Ngư là một chép sử nước Vệ thời Xuân Thu, nổi tiếng về thẳng thắn và trung thực. Khổng Tử đã từng khen: “trực tai Sử Ngư” (Sử Ngư thẳng thay)
Cho đến hôm nay, đọc câu thơ Nguyễn Trãi chúng ta vẫn như tê tái với nổi đau của ông, làm sao có thể sống trong xã hội mà mọi sự thật đều bị che đậy và xuyên tạc. Trong những thời kỳ như vậy, người chép sử, nhà sử học, những người có nhiệm vụ nói lên sự thật, không biết bị dằn vặt như thế nào? Ngày nay chúng ta đang sống trong một giai đoạn cần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật đáp ứng yêu cầu của nhân dân của đất nước. Đã đến lúc những người chép sử, nhà sử học phải tự hỏi rằng “sử bút” của mình có thật nghiêm chưa, đã viết đúng sự thật lịch sử hay chưa?
Từ thời cổ đại người ta đã yêu cầu cho việc chép sử là nêu gương cho nhân dân và đem lại bài học cho những nhà cầm quyền. Polibious, nhà sử học Hy Lạp vào thế kỷ 2 TCN, đã nhận thấy rằng sử học có tính Pagmatikos, tức thực dụng. Trong các vị thần Muses Hy Lạp thì nữ thần Clio là thần sử học, nhưng tên Clio là bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là Kleio nghĩa là ca tụng, biểu dương.
Ơ Phương Đông Khổng Tử viết kinh Xuân Thu, bộ sử lớn của Trung Quốc cổ đại, là cốt để “bao biến” tức là khen và chê các hành vi của nhân vật lịch sử. Cái mẫu mực sử học thực dụng còn tồn tại rất lâu dài về sau, nhất là ở Phương Đông. Ta hãy đọc những dòng của Phạm Công Trứ trong bài tựa sách đại việt sử ký tục biên : “Vì sao phải viết quốc sử? Vì sử chủ yếu ghi chép công việc. Có chính trị của một đời tất phải có sử của một đời mà sự ghi chép của sử giữ nghị luận rất nghiêm, tụ điểm việc trí trị thì sáng tỏ ngang với mặt trời, mặt trăng, răn đe kẻ loạn tặc thì ráo riết như sương thu lạnh buốt, người thiện biết thì có thể bắt chước, người ác biết thì có thể tự răn, quan hệ với chính trị thì không thể là ít, cho nên mới làm ra quốc sử”
Một mục đích thực dụng như vậy đặt ra cho sử học tất nhiên đã ngăn cản không ít việc nói lên sự thật của lịch sử. Thường thì người ta chỉ chọn chép những sự kiện nào có lợi cho đường lối chính trị, hoặc làm thay đổi sự kiện cho phù hợp với ý muốn của nhà cầm quyền.
Nhưng ngay trong hàng ngũ các nhà sử học thời cổ cũng đã có người cho rằng cần làm thế nào để phục vụ đời sống và chính trị không làm haị đến thiên chức nói sự thật của nhà sử học. Chẳng những thế, họ còn cho rằng sử có chép đúng sự thật thì mới phục vụ tốt cho đời sống và chính trị. Ciceron ở la mã đã gắn historia magistra vitae(lịch sử chính yếu của cuộc sống) với yêu cầu đạt tới Lus Veritatis (ánh sáng của sự thật. Trong Deoratore, ông đã viết “luật thứ nhất của chép sử là không giám nói cái giả mạo, luật thứ hai là giám nói tất cả những gì là sự thật”.
Còn Lê Quý Đôn của chúng ta, ở đầu tập Đại Việt thông sử, đã dẫn một loạt các câu nói của các nhà sử học đời trước để coi việc chép sử đúng sự thật như một tôn chỉ của việc soạn sử. Và để giữ được tôn chí đó, cuối cùng ông đã chép lại câu của Yết Hề Tư đời Nguyên “ việc soạn sử phải lấy việc dùng người làm gốc, người có văn mà không biết chép sử thì không thể dự vào sử quán. Người có văn học lại kiêm biết cách soạn sử, nhưng bụng dạ bất chính cũng không được dự”.
Từ thế kỷ thứ 17 sử học thế giới đạt đến mẫu mực phê phán, đặt yêu cầu đem lại sự thật quá khứ. Và từ cuối thế kỷ thứ 19, khi sử học đạt đến mẫu mực cấu trúc và biện chứng, các hình ảnh của quá khứ mà sử học khôi phục còn phải được đặt trong cái toàn thể và sự vận động.
Nhưng biết sự thật không dễ, và dám nói lên sự thật nhiều khi càng khó hơn. Với ý của Yết Hề Tư mà Lê Quý Đôn đã dẫn, nhưng nói theo ngôn ngữ hiện đại thì như thế này :Muốn viết sử phải biết phương pháp sử học và trước hết phải là người trung thực chứ không phải là tên cơ hội .
Viết sử là một nghề, nói như người pháp là Métier D Historien. Người viết sử phải được luyện rèn tay nghề. Cách dạy nghề, tức các sách viết về phương pháp sử học, thường nói đến hai bước cơ bản trong công tác sử học : bước thứ nhất là từ sử liệu, khôi phục sự kiện; bước thứ hai là giải thích và đánh giá sự kiện.
Ngay từ bước thứ nhất đã có những khả năng dẫn nhà sử học xa rời sự thật, đó là vì sử liệu thiếu, và phổ biến hơn vì sử liệu không được phê phán nghiêm túc. Nguời ta chia sử liệu ra làm hai loại: sử liệu trực tiếp và sử liệu gián tiếp. Sử liệu trực tiếp xuất hiện cùng với sự kiện, chẳng hạn trống đồng Ngọc Lũ, khẩu pháo điện biên hay văn bản hiệp nghị Paris… là sử liệu trực tiếp. Còn sử liệu gián tiếp là sử liệu nói đến sự kiện này qua một thông tin gián tiếp, tức tác giả sử liệu. Loại sử liệu này cần được giám định cẩn thận vì thông tin nhận được đã qua trung gian người thông tin. Chẳng hạn hồi ký là sử liệu gián tiếp. Ở đây các sự kiện xảy ra không đồng thời với sử liệu, tức là trước lúc hồi ký được viết nhà sử học Liên Xô M.N.Thernomorski đã viết cả một quyển sách dày, có đầu đề “ hồi ký với tư cách là sử liệu lịch sử” để trình bày các phương pháp để nghiên cứu nguồn sử liệu gián tiếp này.
Hiện nay nhiều công trình nghiên cứu sử học của chúng ta đã sử dụng những nguồn sử liệu gián tiếp một cách thiếu thận trọng. Sử liệu gián tiếp bao gồm cả những lời kể về sau của những người đã chứng kiến sự kiện. Các nhà nghiên cứu lịch sử địa phương hay lịch sử hiện đại, lịch sử đảng thường sử dụng nguồn tài liệu này, những lời kể như vậy thường được phân tích so sánh với các tư liệu khác, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng là cùng một sự kiện, có thể được trình bày rất khác nhau. Tình hình càng xảy ra là nếu người thông tin là người hiện có uy lực chi phối ở địa phương thì lịch sử sẽ được viết theo cách nhìn nhận của người đó.
Đối với các thời kỳ xa xưa, sự sai lầm càng dễ xảy ra, vì sử liệu càng hiếm hơn, khó kiểm tra hơn. Trong nhiều trường hợp để khôi phục sự kiện nhà sử học phải vận dụng đến sự suy đoán lôgích, và thậm chí cả sự tưởng tượng. Nhưng trong trường hợp sự kiện được trình bày mới chỉ là giả thiết thì điều đó phải được nói rõ, đừng để người khác tin rằng đó là sự thật đích xác. Trong nhiều công trình sử học hiện nay, cái mới chỉ là giả thuyết với cái đã là sự thật, thường bị làm lẫn lộn.
Chẳng hạn không một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” là của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết điều đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chiến chống quân Tống ở sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát, cóthể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ. Nhưng đó chỉ là đoán thôi, làm sao nói chắc đựơc đó là bài thơ của Lý Thường Kiệt. Thế nhưng cho đến nay, mọi người tin rằng đó là sự thật, hay đúng hơn không ai giám nghi ngờ đó không phải là sự thật.
Ta còn có thể dẫn ra những ví dụ khác về những sự kiện chắc là không thật mà nay nghiễm nhiên là “sự thật”, ngay cả trong giai đoạn lịch sử gần đây.
Các nhà sử học thường chủ yếu dựa vào nguồn sử liệu viết. Mà nước ta, các văn bản sử liệu thường bị biến chuyển ghê gớm. Đó là chưa kể sự xuất hiện những tài liệu giả. Nếu trình bày sự kiện mà dựa vào sử liệu đã bị biến đổi hay sử liệu giả thì hiển nhiên không tránh khỏi những sai lầm.
Chẳng hạn, cuốn Binh thư yếu lược hiện có, được coi là của Trần Hưng Đạo, là một cuốn sách giả từ đầu chí cuối . Các nhà nghiên cứu viện Hán Nôm vừa làm một việc có ý nghĩa là chứng minh được cuốn sách giả mạo đó đã hình thành như thế nào. Thế nhưng khi viết về cuộc kháng chiến chống Nguyên hay về Trần Hưng Đạo, một số người vẫn dùng cuốn sách giả này. Thậm chí có lãnh tụ đã trích dẫn cuốn sách này trong diễn văn của mình. Đó là lỗi của các nhà sử học, họ đã không thuyết minh đầy đủ khi cho in bản dịch tác phẩm giả mạo này.
Còn các văn bản bị biến đổi, sữa chữa qua các thời kỳ rất nhiều. Thậm chí các văn bản hiện đại. Ngay bức thư của chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các em học sinh mà hiện nay các em trong trường phổ thông vẫn học, vẫn trích, cũng đã sai, khác nhiều với văn bản đầu tiên còn được cất giữ ở cục lưu trữ Trung Ương. Các văn kiện khác cũng vậy. Về điểm này cần phải học tập thái độ của Mac và Angghen khi cho xuất bản Tuyên ngôn Đảng cộng sản năm 1872, hai ông viết rằng “Tuyên ngôn là một tài liệu lịch sử mà chúng tôi không có quyền sửa lại”. Các nhà sử học đòi hỏi phải có một thái độ như vậy đối với các văn kiện lịch sử.
Trên đây là chuyện phê phán sử liệu và miêu tả sự kiện, thực ra sự thật sẽ bị che lấp hay xuyên tạc là ở bước thứ hai, giải thích và đánh giá sự kiện. Đó là vì công việc này phụ thuộc vào mặt chủ quan của nhà sử học như quan điểm, nhận thức và nhân cách. Các nhà sử học chúng ta thường tự coi là người matxit nhưng bệnh thiên lệch lại hay dễ mắc. Mà thiên lệch, cường điệu một cách phiến diện, một mặt nào đó lại là đặc trưng của chủ nghĩa duy tâm . Vì vậy, nhiều sự thật lịch sử đã bị bỏ qua.
Trong một thời gian dài, do một động cơ tốt là phải tập trung binh lực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các nhà viết sử chỉ chú ý đến các trang sử chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc. Không chỉ trong các công trình chuyên luận, mà cả trong các bộ thông sử, cũng chỉ tập trung khai thác truyền thống đánh giặc giữ nước. Một nhà sử học Liên Xô khi bình luận một quyển sử Việt Nam do Uỷ Ban Khoa học Xã hội xuất bản đã có một nhân xét thú vị là các bản đồ trong sách, trừ một bản đồ hình thể chung, đều là bản đồ các trận đánh. Trong thời gian qua, hàng loạt các vấn đề kinh tế – xã hội của lịch sử Việt Nam đã không được chú ý đầy đủ.
Cũng là đề cao truyền thống, chúng ta thường đánh giá một chiều, chỉ nhận thấy cái hay cái tốt, dường như người ta không chấp nhận có truyền thống xấu. Đến nay, trong công cuộc xây dựng đất nước, chúng ta đang cần đánh giá đúng về con người Việt Nam, mà phần lớn là tính cách, khả năng đã được quy định qua lịch sử. Phải phân tích trung thực và khoa học các ưu điểm và nhược điểm của con người Việt Nam, chứ không phải cái gì cũng khen.
Chúng ta đã được đọc cả một cuốn sách dày đề cao truyền thống khoa học kỹ thuật Việt Nam. Tôi nghĩ truyền thống khoa học kỹ thuật Việt Namcũng đã đạt được một số thành tựu về kỹ thuật. Nhưng đề cao quá đáng truyền thống khoa học kỹ thuật của người Việt Nam xưa thì là một sự tô hồng không thật. Vả lại, đề cao ông nghè Vũ Hữu cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16 đã tính đủ số gạch xây tường không thiếu một viên, khi trên thế giới không chỉ châu Au (thời Copernic) mà ở Ả Rập (thời Al Kashi) đã có những công trình toán học cao, thì chỉ là một việc lố bịch.
Rồi người ta lại đề cao cả những truyền thống của làng xã cổ truyền, nhấn mạnh tính dân chủ của nó. Không hiểu vì sao các nhà sử học tự coi mình là Mác xít lại có thái độ “dân tuý” đến như thế. Ngày nay, khi cái cung cách, cái tâm lý “việc làng” đang khoác áo xã hội đi giữa chúng ta, các nhà sử học phải xem xét lại thái độ của mình trong việc đánh giá làng xã cổ truyền. Lịch sử Việt Nam anh hùng thật, vinh quang thật, trình bày nó lúc nào, chỗ nào cũng tốt đẹp cả, rực sáng cả thì quả là không thật. Nhà sử học không chỉ ngâm ngợi những thiên anh hùng ca mà không biết đến những khúc bi ca trong lịch sử.
Cũng thường thiên lệch khi chúng ta đánh giá các nhân vật lịch sử. Con người là cả một hệ thống những mối quan hệ phức tạp, bị quy định bởi các điều kiện xã hội tự nhiện, lịch sử. Thiếu một sự đánh giá xuất phát từ chủ nghĩa lịch sử dường như là căn bệnh chung của chúng ta. Một số người đã chỉ trích các nhân vật lịch sử vì họ không giống ta. Một số lại quá yêu các nhân vật đó, đến chỗ miêu tả tư duy và hành động của họ cứ y như là họ đã được học tập chủ nghĩa Mac- Lênin.
Chúng ta hãy nhớ lời Mac :” khoa học càng vô tư và không thiên vị thì càng phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của người công nhân”. Một nền sử học muốn tự biểu hiện là Macxít chân chính, chẳng những phải đặt cho mình nhiệm vụ khám phá chân lý của lịch sử, mà còn phải tỏ rõ khả năng đạt được sự thật khách quan. Cho đến nay nhiều học giả tư sản vẫn nghi ngờ tính khách quan của sử học. Ngay người bạn của chúng ta là Bertrand Russell cũng nói rằng:” sử học chỉ là dẫn ra những ngu xuẩn ngày hôm qua để giúp con người chịu đựng được những ngu xuẩn ngày hôm nay”. Chúng ta phải bác bỏ những luận bằng cách chứng minh rằng nền sử học của chúng ta có khả năng đạt được sự thật khách quan, chứ đừng tiếp tục giúp thêm chứng cứ cho những luận điểm đó
Từ khi chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử macxít ra đời, khám phá ra cơ chế hoạt động của sự thật phát triển xã hội, các nhà sử học được cung cấp một mô hình giải thích lịch sử có tính nhất thể – năng động, kết hợp cả hai mặt cấu trúc và biến đổi. Sử học vươn tới phát hiện quy luật và nhờ đó sử học không những nhận thức được quá khứ mà còn chuẩn bị cho những khả năng dự báo. Nhưng sử học muốn thực hiện các chức năng đó, khảo sát con đường đã qua và góp phần nhận thức con đường sắp tới, một điều kiện cơ bản là phải biết sự thật và nói lên sự thật.
Đã là con người, không phải là ông thánh, thì có lúc đúng lúc sai. Đó là chuyện thường tình. Nhưng thật là không công bằng khi chỉ vì khuyết điểm của thời kỳ này, ta sổ toẹt hết cả công lao của nhân vật đó, khi ở thời kỳ khác, đóng góp của người đó rõ ràng, không thể chối cãi. Nhà sử học Mác xít không thể chấp nhận một thái độ như vậy. Tại sao chúng ta không noi gương Lênin trong việc đánh giá nhân vật như Plê-kha-nốp?.
GS Hà Vãn Tấn
Tạp chí Tổ quốc, tháng giêng, 1988.

tự do


Thế giới văn minh
Quay lưng
Cái ác thản nhiên
Đóng đinh lên quan tài nhân loại
Từ Hồng Kông.
Và chúng ta
Vẫn lặng im
Như những bóng ma
Trong một thế giới
Không NGƯỜI.
HKC, 17.11.2019
Tự do luôn phải trả giá rất đắt. Tuổi trẻ Hong Kong đã dám trả bằng chính sinh mạng mình.
Chính quyền đàn áp bằng bạo lực thì dù có thể tước đoạt sinh mạng nhưng không bao giờ tiêu diệt được ý chí tự do.
Chỉ có súc vật mới sử dụng sức mạnh để giết chết đồng loại!

Trong hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người, đám đông và ngoài trời


Câu chuyện về Thành Long.




Có người bạn nhắn hỏi “quanh sự việc phản đối Thành Long qua VN làm từ thiện có ý kiến cho rằng, việc Thành Long ủng hộ đường lưỡi bò và bê bối trong quan hệ gia đình thì không liên quan đến việc ông ta hoạt động thiện nguyện cho trẻ em ở VN. Vì vậy không nên phản đối việc ông ấy có mặt ở VN”. Ý kiến của chị thế nào?

-       Trước hết mình nói rõ: mình phản đối Thành Long qua VN là một cách biểu hiện sự phản đối “đường lưỡi bò” mà TQ đang áp đặt trên biển Đông, mà Thành Long đã công khai ủng hộ sự áp đặt này. Tất nhiên nhiều người dân TQ theo tuyên truyền giáo dục của chính quyền TQ cũng có quan điểm như Thành Long, nhưng là người của công chúng – một ngôi sao điện ảnh nổi tiếng - thì sự ảnh hưởng từ nhận thức và hành xử của Thành Long lớn hơn những người vô danh khác, cả trong nước TQ và ngoài nước TQ. Trong sự việc này khi người Việt phản đối Thành Long chứng tỏ nhận thức về chủ quyền quốc gia đã trở thành ý thức của nhiều người Việt và họ đã công khai bày tỏ ý thức ấy. Đó là một điều đáng mừng!

-       Tập Cận Bình qua VN thậm chí nói chuyện tại QH - đó là vị khách ngoại giao của nhà nước, nhưng nếu mình có quyền thì không bao giờ mình mời ông ta qua VN dù bất cứ lý do gì! Vì vậy, việc tổ chức OS mời Thành Long qua hoạt động tại VN theo mình là không nên! Và tổ chức đó đã kịp thời thay đổi không mời Thành Long nữa, qua phát biểu của đại diện thì thấy dường như họ cũng không quan tâm nhiều đến “chính trị”, cụ thể là vấn đề chủ quyền biển Đông. Đây cũng là điều mà chắc chắn những sự kiện tổ chức sau này sẽ chú ý hơn.

-       Về tư cách Thành Long trong quan hệ gia đình: mặc dù mình không coi trọng những người đàn ông vô trách nhiệm với gia đình, nhất là đã bỏ rơi con, nhưng ông ta vẫn có quyền đi làm từ thiện vì/cho trẻ con và mình không phán xét chuyện đó. Vì trong thực tế có rất nhiều chuyện tương tự: ngoại tình làm khổ vợ con nhưng vẫn luôn “chia sẻ cảm thông” với những người đàn bà ‘cô đơn” khác; hay lừa dối bạn bè người thân nhưng luôn lên tiếng “đấu tranh” đòi hỏi sự công khai minh bạch của chính quyền, hay sống bê tha nhưng luôn miệng rao giảng đạo đức.
Chỉ có điều người nổi tiếng như Thành Long thì bị cộng đồng quan tâm nhiều hơn đến tư cách trong những việc riêng, vì vậy chỉ cần một khiếm khuyết cũng khó được tha thứ.

Tóm lại: theo mình, phản đối Thành Long không hẳn/không chỉ là phản đối một con người cụ thể, mà qua đó chính là sự phản đối một quan điểm mà ông ta ủng hộ vì quan điểm ấy có hại cho VN. Hiểu như vậy thì thái độ sẽ bình tĩnh và nếu có tranh luận cũng đi vào thực chất, không sa vào “bỏ bóng đá người” hay ngụy biện.


“THIÊN ĐƯỜNG” KHÔNG TỪ CÁI TÚI BA GANG



Nguyễn Thị Hậu

Người dân nước Anh tưởng niệm 39 người Việt chết trong xe container đông lạnh khi nhập cư lậu, cảnh sát Anh dành một phút mặc niệm những người xấu số chết xa quê hương, những hành xử ấy là lòng nhân ái trước cái chết của con người - bất kể quốc tịch và nguyên do; hành xử ấy vì - như biểu ngữ của họ chỉ ra – đừng lên án người nhập lậu mà hãy nhìn thấy căn nguyên của việc này! Tức là phải thấy nguyên nhân là từ quốc gia đã để xảy ra tình trạng nhiều người phải ra đi tìm cách nhập cư lậu vào nước khác. Chính vì quan niệm như vậy nên những người đã chết vì chính sự phạm pháp của mình vẫn được nơi mà lẽ ra phải trừng phạt họ - đối xử tử tế và thương xót. Có lẽ đó cũng là một trong những nguyên nhân sâu xa khiến nhiều người tìm đến vùng đất – nơi họ dù thế nào đi nữa - vẫn nhận được lòng trắc ẩn từ đồng loại.

Mọi người đều có quyền lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Đúng thôi, nếu có quyền lựa chọn những khả năng ngang nhau. Còn giữa một bên là đói nghèo và bên kia “có khả năng giàu có”, chắc chắn nhiều người sẽ chọn tia sáng dù mong manh còn hơn chịu sống mòn trong đêm tối. Một vài người “tham, liều” thì còn nói là do bản thân họ, nhưng hiện tượng này phổ biến ở nhiều làng quê, công khai, đến mức coi cái chết thảm chỉ là “không may”, thì rõ ràng nó không còn là chuyện của vài gia đình mà đó là chuyện của xã hội, của quốc gia. Trách nhiệm của nhà nước chính là ở đấy!

Trách người dân tham, liều thì cứ nhìn quan chức các cấp xem có tham có liều không? Quan chức luôn tìm cơ hội đục khoét tham nhũng hối lộ để giàu có mà “đi nhờ” và trốn ra nước ngoài, cho con cái du học, đầu tư rồi làm thẻ xanh cho cả nhà. Quan chức bất chấp luật pháp coi tài sản tiền bạc tài nguyên quốc gia như “của chùa” để tha hồ “của chung ai đã vẫy vùng thành riêng”. Những người dân khi buộc phải phạm pháp thì họ đã đánh đổi nhân phẩm nhưng quan chức tham nhũng thì đã đánh mất nhân phẩm.

Tôi chẳng hy vọng nhà nước VN có hình thức nào để tưởng niệm 39 người chết xa quê hương, vì bao tai nạn thảm khốc trong nước, như hồi sập cầu Cần Thơ hàng trăm ngươi chết còn không có tưởng niêm quốc tang gì nữa là... Một lời xin lỗi với nhân dân vì đã để xảy ra những thảm cảnh có lẽ là quá xa xỉ đối với những người, những cơ quan có trách nhiệm.

Trước những cái chết còn quá trẻ, chỉ mong các bậc cha mẹ và gia đình khác, sau thảm cảnh này xin đừng vì giấc mơ giàu có nhanh chóng, đừng buộc cho con cái chữ hiếu phải trả bằng tiền bạc vật chất... mà để con cái vượt biên mạo hiểm sống chết cận kề, chưa kể bao hiểm nguy trong cuộc sống chui lủi, phạm pháp nơi đất khách. Xưa có chuyện “Ăn khế trả vàng” trong đó cây khế là một cơ hội để đổi đời. Nhưng xin đừng ảo tưởng việc đó dễ dàng mà bay ra đảo xa lấy vàng bạc. Cái chết của người anh trong chuyện cổ tích này mới là điều mà ông bà xưa muốn nhắn gửi lại, nhưng tiếc thay người đời sau chỉ thấy “túi ba gang” đầy vàng của người em mà quên rằng cũng như người anh, mấy ai bằng lòng với túi ba gang để rồi chết thảm.

Thiên đường không thể bắt đầu từ cái túi ba gang đầy may rủi mà “may mắn” chỉ là cuộc sống khốn khó nơi đất khách còn sự rủi ro là tính mạng con người và số phận cả gia đình.

“Quê hương là chùm khế ngọt”, cây khế phải được tươi tốt nhờ đất đai màu mỡ, nhờ sự vun trồng của con người. Giữ gìn và chăm lo cho mảnh đất ấy ngày càng màu mỡ, không cho lũ diều quạ đến phá hoại cây trồng trước hết là trách nhiệm của nhà nước, sau mới là của mỗi người dân có công vun xới bắt sâu... Khi những cây khế trĩu nặng những chùm quả vàng trái ngọc thì không còn ai phải liều mình theo lũ quạ diều vượt biển đến nơi xa mưu cầumột “thiên đường mong manh”.

Sài Gòn 4.11.2019




MỘT CUỘC TRÒ CHUYỆN




Hồi lâu rồi có bạn trẻ gửi câu hỏi và nhờ mình trả lời, từ chối mãi không được nên đã gửi câu trả lời cho bạn. Chẳng biết bạn có sử dụng bài phỏng vấn này hay không vì sau đó không thấy bạn nhắn nhe gì.
Hôm nay tìm tài liệu cũ lại tìm thấy bài này. Thôi bỏ lên FB cho vui https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/feb/2/16/1f642.png

@ Tự nhận rằng “Hà Nội là tuổi thơ của tôi, còn Sài Gòn là nơi tôi trưởng thành. Nam bộ là quê hương của tôi”. Cho cháu hỏi, sự “đặc biệt” này có ảnh hưởng như thế nào đến con người Nguyễn Thị Hậu hiện tại?
- Sự đặc biệt này có ở nhiều người chứ không phải riêng có ở tôi, có thể nói là đặc điểm của một thế hệ. Thế hệ những người như tôi có được sự hòa hợp của văn hóa miền Bắc, miền Nam, văn hóa của gia đình và văn hóa của môi trường xã hội. Bạn bè thường nhận xét về tôi, nghe giọng nói của tôi và đọc những gì tôi viết thì nghĩ tôi hoàn toàn là “người Hà Nội”, nhưng nếu quen biết tôi lâu hơn và làm việc với tôi thì nhận thấy, tôi lại là “người Sài Gòn chánh hiệu” https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/feb/2/16/1f642.png

@ Cơ duyên nào khiến cô đến với khảo cổ học và quyết định gắn bó với nó?
-
Tôi học Đại học tổng hợp, khoa Sử, thích môn này do các thầy giảng, dạy rất hay. Ra trường thì theo nghề, vừa vì yêu thích vừa vì thời chúng tôi… ít có sự lựa chọn.
@ Có lẽ, bên cạnh một “Hậu khảo cổ” đã trở thành thương hiệu. Mọi người còn biết đến cô với rất nhiều hoạt động xã hội. Với cô, công việc nào hiện tại khiến cô hứng thú và dành nhiều thời gian hơn cả? Và liệu rằng, cô muốn mọi người biết đến Nguyễn Thị Hậu với vai trò gì trong xã hội?
- Thật ra những “hoạt động xã hội” cũng là một phần công việc của tôi, nhưng được thực hiện dưới hình thức khác mà thôi. Nghiên cứu khoa học (lịch sử, khảo cổ) cũng cần được phổ biến để cộng đồng có thêm hiểu biết khoa học, sự bày tỏ thái độ, chính kiến cũng là cần đóng góp với xã hội ngày một tốt hơn. Tôi nghĩ đấy là trách nhiệm của bất kỳ người nào. Vì vậy công việc nào tới thì làm cũng không đo đếm thời gian. Tôi chỉ là “Nguyễn Thị Hậu” bình thường như mọi người phụ nữ khác.

@ Sau “101 truyện ngắn 100 chữ”, độc giả còn thấy một Nguyễn Thị Hậu với cái nhìn tinh tế về nhiều vấn đề của xã hội thông qua những câu chuyện hết sức gần gũi, bình thường thông qua “Thế giới mạng và Tôi”. Vậy, điều gì khiến cho chị có được một góc nhìn hết sức độc đáo, tinh tế như vậy?
- Tôi nghĩ, có lẽ do “giời sinh” ra phụ nữ là như vậy. Cộng với thói quen nghề nghiệp nên nhìn cái gì cũng thấy những “góc khuất” của nó. Cuộc sống vốn vậy, vấn đề là mình nhìn nó thế nào, tích cực hay tiêu cực mà thôi.

@ Đọc nhiều bài viết, tạp bút của cô, mọi người thường thấy phảng phất đâu đó một nỗi đau, trăn trở. Cô có thể định nghĩa rõ hơn về những “trăn trở” của mình?
- Nói vậy có vẻ to tát quá https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/feb/2/16/1f642.png Tôi chỉ thể hiện những suy nghĩ của mình một cách chân thành. Mà ai là người biết nghĩ thì đều phải có những trăn trở với các vấn đề xã hội hiện nay, phải không?

@ Chừng ấy năm gắn bó với nhiều công việc, chắc cô đã gặp không ít áp lực. Cô đã bao giờ thất bại trước việc gì chưa và vượt qua nó như thế?
- Có thất bại. Đấy là khi tôi không thể tiếp tục làm một công việc mà tôi yêu thích nhất, do những quan hệ trong công việc không còn phù hợp. Tuy nhiên, không làm được việc đó thì tôi cố gắng làm tốt công việc mới, đấy là cách vượt qua nỗi buồn và để thấy mình có ích, cho chính mình và cho xã hội.

@  Cô đã nghỉ hưu nhưng người ta vẫn thấy một Nguyễn Thị Hậu hết sức trẻ trung, cả vẻ bề ngoài lẫn tâm hồn. Bí quyết nào giúp cho cô làm được điều đó?
- Điều này tôi phải cám ơn các con gái của tôi, cám ơn những người bạn trẻ của tôi, và cám ơn mạng xã hội https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/feb/2/16/1f642.png. Họ không để cho tôi “già nua cũ kỹ” vì luôn mang lại cho tôi những cái mới, mới trong suy nghĩ, nhận thức, tri thức… Để mình có thể hữu ích thì không thể không làm mới mình https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/feb/2/16/1f642.png

@ Dù rất bận rộn nhưng cô luôn dành thời gian để “tám” cùng bạn bè, chia sẻ với công chúng những tâm tư của mình thông qua blog, Facebook. Liệu đây là niềm vui của cô hay là một còn một lý do nào khác?
- Internet cho ta một “trường giao tiếp” mới, tại sao mình lại từ chối nó, khi mà qua nó, nhờ nó mình có thêm bao điều mới mẻ, bao người bạn tốt? Nó cũng là nơi mình rèn luyện “bản lĩnh” va chạm với môi trường “ảo”. Kinh nghiệm từ nhiều “nhân vật” trên mạng càng làm cho tôi hiểu hơn một điều giản dị: sự nổi tiếng ở bất cứ đâu (ngoài đời, trên mạng) luôn là con dao hai lưỡi, và “người của công chúng” nếu có chút ảo tưởng thôi, sẽ nắm vào lưỡi dao thay vì cầm vào cán.

@ Có lần, cô đã từng nói: “Phụ nữ thường nhạy cảm, phụ nữ có nội tâm phong phú càng nhạy cảm. Mà cuộc sống hiện nay thì quá nhanh, hiếm có khoảnh khắc “lặng” để nhìn lại”, cô có thể chia sẻ nhiều hơn về điều này. Có phải người phụ nữ hiện nay đang chịu quá nhiều thiệt thòi hay không?
- Thiệt hay không cũng do từng người cảm nhận. Sự phong phú trong thế giới nội tâm của phụ nữ, theo tôi, là một tài sản vô giá. Sử dụng nó như thế nào thì… tùy https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/feb/2/16/1f642.png

@ Mong cô chia sẻ một chút về “tổ ấm” của mình. Bận rộn với công việc như vậy thì cô có bí quyết gì để chăm sóc gia đình vẹn toàn?
- Gia đình tôi cũng bình thường như nhiều gia đình khác. Ai có việc của người nấy, không đòi “bình đẳng” trong chuyện nội trợ, kể cả việc lớn. Tự thấy việc gì cần làm thì làm… Có lẽ nhờ vậy nên “ổn định” chăng https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/feb/2/16/1f642.png

Cảm ơn và chúc cô sức khỏe, thành công!
(2014)
Top of Form


LÀNG NGHỀ SÀI GÒN MỘT THỦA VANG DANH

   (Người Đô Thị Xuân Giáp Thìn 2024) Nguyễn Thị Hậu Sài gòn là một đô thị từ khi khởi lập. Tính chất đô thị của Sài Gòn không chỉ ở chứ...