DI SẢN LỊCH SỬ - VĂN HÓA CÁC ĐÔ THỊ NAM BỘ NHÌN TỪ GIA ĐỊNH THÀNH THÔNG CHÍ CỦA TRỊNH HOÀI ĐỨC

Vài nét về công trình Gia Định thành thông chí

Gia Định thành thông chí (嘉定城通志) còn có tên Gia Định thông chí (嘉定通志), là một quyển địa chí do Trịnh Hoài Đức (1765-1825) biên soạn, viết về địa lý-lịch sử-văn hóa của miền đất Gia Định (Nam Bộ ngày nay).

           Công trình Gia Định thành thông chí là cơ sở của nhiều bộ thông sử của triều Nguyễn, là tài liệu cơ bản và quan trọng để nghiên cứu lịch sử Nam bộ, Việt Nam thời cận đại và nhất là nghiên cứu các vấn đề về triều Nguyễn. Nội dung của công trình đề cập một cách toàn diện, chi tiết các lĩnh vực địa lý, lịch sử, văn hóa, con người… của vùng đất Gia Định xưa thời nhà Nguyễn (lúc đó gồm 5 trấn Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên).  Các thị tứ, các trấn được khảo tả chi tiết và sinh động, toàn diện các lĩnh vực như kinh tế - xã hội – văn hóa – con người – xây dựng đô thị... Đặc biệt hệ thống địa danh dân gian và hành chính ghi chép trong Gia Định Thành thông chí là vốn tư liệu quý giá về ngôn ngữ, về đời sống cộng đồng, về quá trình hành chánh hóa vùng đất Gia Định.

     Đây là công trình khoa học mẫu mực của thể CHÍ. Đặc biệt cách tiếp cận và tâm thức của Trịnh Hoài Đức thể hiện trong công trình vừa từ góc độ “bên ngoài” – ông gốc người Minh hương, có khác biệt nhất định về văn hóa lối sống để có những nhận biết rất tinh tế và khách quan; vừa từ góc độ “bên trong” – ông với tư cách một đại thần triều Nguyễn - để phân tích, đánh giá, nhận xét một cách sâu sắc.

     Đã có nhiều bản dịch và giới thiệu về công trình này. Năm 2019 Nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh xuất bản bản dịch mới của Phạm Hoàng Quân. Bản dịch này phân tích kỹ văn bản gốc, chú giải và khảo chứng, qua đó đính chính được rất nhiều chỗ sai lầm hoặc giải thích chưa rõ của các bản dịch trước. Bản dịch của Phạm Hoàng Quân đưa công trình đến gần độc giả hiện nay hơn, vì giúp độc giả hiểu rõ về địa lý – lịch sử Nam bộ nói chung và từng địa điểm, địa danh dược ghi chép trong công trình Gia Định thành thông chí nói riêng.

Chúa Nguyễn mở mang vùng đất Gia Định

     Giai đoạn Chúa Nguyễn mở mang vùng đất Nam bộ cũng là giai đoạn họat động ngọai thương ở khu vực Đông Nam Á khởi sắc. Ngòai thương cảng Hội An nổi tiếng từ thế kỷ XVI, các trung tâm thương nghiệp mới như Cù Lao Phố (Biên Hòa, Đồng Nai), Mỹ Tho, Hà Tiên... cũng phát triển nhờ lợi thế của hệ thống giao thông đường thủy (cảng biển, sông rạch...).

      Mùa xuân Mậu Dần 1698, năm thứ 8 của chúa Nguyễn Phúc Chu, triều đình sai Thống suất Chưởng cơ lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, “ông lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, đặt xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, xứ Sài Gòn đặt là huyện Tân Bình, dựng dinh phiên Trấn…”. Phủ Gia Định lúc này bao gồm khắp miền Đông Nam Bộ, có một phủ, hai huyện, hai dinh. Mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục để quản lý, các cơ độ thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất đai hơn nghìn dặm, dân hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chánh đến lập nghiệp, lập ra xã thôn phường ấp, phân định địa giới, trưng thu ruộng đất, định mức tô thuế, lập sổ đinh sổ điền[1]. Kể từ thời điểm này nền hành chính tại Gia Định được thiết lập, tính pháp lý về chủ quyền quốc gia được xác lập trên vùng đất này.

     Từ đầu thế kỷ 18, chính quyền chúa Nguyễn đã chiêu mộ thêm dân để đẩy mạnh tiến trình khai hoang, mặt khác khuyến khích những người giàu có tại các vùng ở Đàng Trong di cư vào đất Gia Định. Mặt khác, chúa Nguyễn tạo điều kiện dễ dàng cho việc khai khẩn bằng chính sách thả nổi cho lưu dân tự chiếm đất hoang để trồng lúa, trồng cau, lập vườn, xây nhà mà không phải qua một thủ tục hành chính nào cả. “Đất Nông Nại xưa vốn nhiều đầm ao rừng rú, buổi đu mới lập ra ba dinh, mộ dân đến lập nghiệp, phép tắc hãy còn khoan dung giản dị... không hề ràng buộc, cốt sao khiến cho dân khai hoang mở đất cho thành ruộng, lập nên thôn xã mà thôi”.[2]

Từ năm 1790 Thành Gia Định từ một trung tâm chính trị mau chóng trở thành thương cảng lớn của Đàng Trong và trong khu vực Đông Nam Á. Đến thời nhà Nguyễn, Gia Định thành là một đô thị có vai trò sánh ngang Thăng Long và Phú Xuân, nhưng khác với Thăng Long và Phú Xuân vai trò chủ yếu là trung tâm chính trị, Sài Gòn – Gia Định được nhìn nhận vai trò kinh tế quan trọng (nông sản, thương nghiệp, thủ công nghiệp) bên cạnh vai trò trung tâm chính trị - văn hóa của Đàng Trong.

Diện mạo các đô thị ở Nam bộ khoảng đầu thế kỷ 19

Năm 1808, vua Gia Long đổi trấn Gia Định thành Gia Định Thành, bao gồm 5 trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh Thanh (sau chia ra Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường (sau này là Định Tường) và Hà Tiên.      

Gia định thành thông chí đã cho biết các trấn thời Nguyễn ở Nam bộ vào đầu thế kỷ XIX đã là những trung tâm kinh tế sầm uất, cùng thành trì là trung tâm hành chính thì nhà cửa phố xá bến chợ luôn được nhắc đến như một thành phần quan trọng của một trấn. Sau đây là vài miêu tả trong phần Thành trì chí.

Trấn Phiên An có Chợ phố Bến trước thành, phố chợ, nhà cửa rất trù mật... tụ tập hàng trăn thứ hàng hóa, dọc bến sống thuyền buôn lớn nhỏ đi lại sn sát (tr.553). Phố Sài Gòn (Chợ Lớn) đường phố lớn, thẳng suốt ba đường giáp đến bến sông... đan xuyên nhau như chữ điền, phố xá liền mái, người Việt và người Trung quốc cùng sinh sống... Hai bên nam - bắc bến sông không thứ gì là không có (tr.559); Ngoài ra còn có các chợ khác cũng nổi tiếng như Chợ Khung Dong (chợ cây da còm), Chợ Điều Khiển, phố chợ Lịch Tân (chợ Bến Sỏi), chợ Tân Kiểng...

Trấn Biên Hòa có phố lớn Nông Nại – cù lao Đại Phố. mái ngói tường vôi, lầu quán cao ngất, dòng sông rực rỡ, ánh nhật huy hoàng, liền nhau tới 5 dặm, chia làm 3 đường phố, đường phố lớn lát đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lót đá xanh, toàn thể đường bằng phẳng như đá mài, kẻ buôn tụ tập, thuyền đi biển, đi sông đều đến cuốn buồm neo đậu, đầu đuôi thuyền đậu kế tiếp nhau, thật là một chỗ đô hội… (tr.568)

Trấn Định Tường có chợ và phố lớn Mỹ Tho, mái ngói cột chạm phủ, đình cao, nha thự rộng, thuyền bè sông biển ra vào, buồm thuyền trông như mắc cửi, thật là nơi đô hội lớn phồn hoa huyên náo. (tr.571)

Trấn Vĩnh Thanh có chợ Vĩnh Thanh, chợ Long Hồ phố xá liền nhau hàng hóa cả trăm món, dài đến 5 dặm ghe thuyền đầu suốt bến, miếu thần, đình làng mọc lên, đờn ca náo nhiệt, là chợ phố lớn của trấn. Chợ Sa Đéc: phố chợ nằm dọc theo bờ sông, mái nối mái liền nhau đối nhau san sát như vảy cá... trên bờ dưới sông có hàng trăm thứ hàng hóa tốt đẹp, nhìn ngợp mắt thỏa lòng, quả là chốn phồn hoa. (tr.576)

Trấn Hà Tiên: đường xá giao nhau, phố xá nối liền. Người Việt người Hoa người Cao Miên người Chà Và tụ họp chia ở, thuyền biển ghe sông qua lại như mắc cửi, thất là nơi đô hội góc biển vậy. (tr.576)

Như vậy, từ những ghi chép, khảo tả của Gia Định Thành thông chí, có thể nhận biết ngay từ khi khởi lập, các đô thị Nam bộ luôn ở trung tâm của mạng lưới giao thông đường thủy từng khu vực, tận dụng sự thuận tiện của hệ thống sông, kênh rạch, đường biển và chế độ thủy triều… Từ những bến – chợ đã hình thành các cảng thị như Sài Gòn, Cù Lao Phố, Mỹ Tho, Ba Vát (Bến Tre), Hà Tiên…sau này có Cần Thơ, Long Xuyên, Sa Đéc… Giữa các tỉnh hầu như đều có ranh giới tự nhiên là những giòng sông lớn nhỏ, trên trục lộ chính cứ qua một bến phà (nay là một cây cầu) là vào địa phận một thành phố lớn/trung tâm một tỉnh.

Có thể nói tính chất của đô thị Nam bộ là “đô thị sông nước”, người ta biết đến đô thị không chỉ là những thành trì, các công trình hành chính hay tôn giáo mà còn được biết đến vì cảnh quan “trên bến dưới thuyền”. Nếu ở vùng nông thôn “dưới thuyền” quan trọng vì hàng hóa nông sản nhờ ghe thương hồ chuyên chở, lưu thông thì tại các thị tứ, “trên bến” dần hình thành những cảng thị (sông, biển) nổi tiếng với sự phong phú của hàng hóa, sự giao lưu trao đổi buôn bán trù mật, sự đông đúc đa dạng của cư dân.  

Từ thị tứ trở thành các Trấn khi được bổ sung thêm chức năng hành chính, chính trị và quân sự. Trung tâm hành chính của các Trấn ở Nam bộ thời Nguyễn đã là những đô thị sầm uất phát triển thương mại, gắn liền với đường sông và đường biển. Do vậy các đô thị ở Nam bộ hình thành có phần khác biệt so với Thăng Long/Hà Nội, Huế hay Phố Hiến, Hội An… Tuy bước đầu hình thành các đô thị này mang tính chất là trung tâm hành chính – quân sự nhưng không thể thiếu cơ sở quan trọng là kinh tế - yếu tố này trong quá trình phát triển ngày càng nổi bật.

Tính chất đô thị rõ nét qua đường phố, nhà cửa, chợ búa, phố nghề/phố chuyên doanh… Gắn bó chặt chẽ với vùng nông thôn xung quanh nhưng không làm “nông thôn hóa” mà ngược lại luôn có xu hướng “đô thị hóa” cho vùng xung quanh. Tính chất kết nối với các đô thị khác rất cao theo sông nước, do là những trung tâm kinh tế và tính chất thị trường.

Dân cư – con người vùng đất Gia Định

Đến cuối thế kỷ 17 ở Gia Định, “con cháu người Hoa ở Trấn Biên thì lập thành xã Thanh Hà, ở Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương, đều biên vào hộ tịch”, đây là bộ phận người Hoa đã sớm có mặt cùng người Việt, người Khmer, người Chăm và các tộc người bản địa khác chung sống và xây dựng vùng đất Sài Gòn nói riêng và vùng Nam Bộ nói chung. Chính quyền của chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã xem người Hoa như thần dân của mình và họ đã trở thành một bộ phận hữu cơ của cư dân Nam Bộ, góp phần tạo dựng phát triển kinh tế thương nghiệp và thủ công nghiệp.

Từ khi Gia Định trở thành trung tâm của Đàng Trong thời Chúa Nguyễn, nơi đây đã là nơi dân tứ xứ thường xuyên đổ về. Trong Gia Định thành thông chí, mục Phong tục chí ghi chép như sau: “Vùng Gia Định nước Việt đất rộng lương nhiều, không lo nạn đói lạnh, nên ít dự trữ, dân quen thói xa hoa, sĩ phu phong khí phấn phát. Do người bốn phương tự cư nên mỗi nhà đều có tục lệ riêng”. “Gia Định là cõi Nam nước Việt, lúc mới khai thác, lưu dân nước ta cùng người Đường (...), người Tây dương (...) Cao Miên, Đồ Bà (...) đến ngụ cư đông đúc xen lẫn, mà người các nước ấy thì y phục đồ dùng đều theo kiểu của dân tộc họ”[3]. 

 “Gia Định ở về phương Nam, gần ánh sáng mặt trời, người phần đông có tánh trung dũng khí tiết, coi nặng việc nghĩa coi nhẹ tiền tài, cho dù phụ nữ cũng vậy”, “Ở Gia Định khi có khách đến nhà, đầu tiên gia chủ bày trầu cau, sau đó dọn cơm bánh, tiếp đãi chu đáo đầy đủ. Bất kể là người thân hay sơ, quen hay lạ, tông tích ở đâu, đã đến thì phải đón tiếp đãi đằng. Nên nhiều người đi chơi không cần mang theo lương thực, nhưng lại khiến người né xâu trốn thuế đến xứ này nhiều, bởi có chỗ ăn chỗ ở”.[4]

Trải qua hai trăm năm với bao biến cố xã hội nhưng tính cách, lối sống đặc trưng của người Gia Định vẫn không thay đổi mà ngày càng được duy trì đậm nét. Cho đến nay, người nhập cư vẫn là thành phần hữu cơ của TP. Hồ Chí Minh. Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh luôn là nơi được nhắc đến bởi những việc làm thiện nguyện của các tổ chức xã hội, các cá nhân, là nơi luôn đi đầu trong những đợt cứu trợ “nhường cơm xẻ áo” cho các địa phương khác khi gặp thiên tai, cũng là nơi đùm bọc sẻ chia mọi cơ hội việc làm cho “người tứ xứ”. Sự hội tụ nhân lực từ mọi miền, mọi nguồn gốc, cùng với nhiều thế hệ dân cư ở Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh đã duy trì, phát triển sức sống trẻ trung, phát huy những phẩm chất, truyền thống tốt đẹp của thành phố.

Truyền thống cần lưu giữ và lan tỏa

Truyền thống của một vùng đất, một cộng đồng là những gì được lắng đọng và lưu truyền qua quá trình lịch sử dài lâu, hình thành từ sự thích ứng với thiên nhiên và tính cách văn hóa của cộng đồng. Cũng có thể coi những đặc điểm trên đây của các đô thị và con người Gia Định hồi đầu thế kỷ 19, qua công trình của Trịnh Hoài Đức, là một truyền thống quý giá và đặc sắc của vùng đất Nam bộ.

Trong quá trình đô thị hóa – hiện đại hóa, quá trình quy hoạch phát triển các đô thị ở Nam bộ cần chú ý những đặc điểm của “thị tứ, trấn” của vùng Gia Định đã được chỉ ra trong Gia Định Thành thông chí. Đó là sự thích ứng, thích nghi với Phong, Thủy, Thổ của vùng đất, là sự chủ động, sáng tạo của con người vùng đất này. Bên cạnh đó cần thiết phải nhận diện những đặc trưng văn hóa, lối sống, tính cách của con người vùng Gia Định để lưu giữ, lưu truyền và lan tỏa cho những thế hệ dân cư đến sau đang sinh sống trên vùng đất Nam bộ.

Đặc biệt cần sưu tầm, lưu giữ các địa danh dân gian và địa danh hành chánh đã được ghi chép trong Gia Định thành thông chí. Nên bảo tồn và trong nhiều trường hợp cần khôi phục địa danh cổ, ví như ở Đồng Nai – Biên Hòa (nơi có khu mộ Trịnh Hoài Đức – một di tích lịch sử quốc gia) có các địa danh đã đi vào lịch sử và tâm thức cộng đồng một cách bền vững và thân thương như Cù Lao Phố (nay là phường Hiệp Hòa), Cầu Gành (nay gọi là Cầu Ghềnh)... Hệ thống địa danh là di sản văn hóa vì phản ánh và tích hợp giá trị lịch sử - văn hóa, nguồn gốc và quá trình dân cư… Hệ thống di sản qua địa danh cho biết vùng đất Gia Định, Nam bộ có quá trình lịch sử lâu dài, có nền văn hóa độc đáo và nhân văn. Vì vậy cần có những nhận thức, quan điểm và ứng xử phù hợp với con người và vùng đất Nam bộ.

Trước mắt, cần đưa công trình Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức vào giảng dạy trong phần “lịch sử địa phương” ở tất cả các tỉnh Nam bộ, bằng hình thức giới thiệu nội dung và giá trị của công trình này. Từ đó lớp trẻ được tiếp nhận kiến thức, tri thức lịch sử - văn hóa của quê hương ngay từ sử liệu gốc. Truyền thống lịch sử - văn hóa mang tính bền vững, được truyền lại và bổ sung qua từng giai đoạn, trở thành “sợi chỉ đỏ xuyên” suốt từ quá khứ đến hiện tại và tương lai của một cộng đồng, một vùng đất.  

 

TP. Hồ Chí Minh, tháng 4.2024

 Nguyễn Thị Hậu


[1] Trịnh Hoài Đức, 2019, Gia Định thành thông chí. Phạm Hoàng Quân dịch, chú và khảo chứng. NXB Tổng hợp TPHCM và Saigonbooks. Tr.289

[2] Trịnh Hoài Đức, 2019, sđd, tr.292

[4] Gia định thành thông chí, sđd, tr.495








LÀNG NGHỀ SÀI GÒN MỘT THỦA VANG DANH

  (Người Đô Thị Xuân Giáp Thìn 2024)

Nguyễn Thị Hậu

Sài gòn là một đô thị từ khi khởi lập. Tính chất đô thị của Sài Gòn không chỉ ở chức năng hành chính – chính trị mà còn là trung tâm kinh tế thương mại và tiểu thủ công nghiệp. Tài liệu lịch sử cho biết, khoảng cuối thế kỷ 18 ở Sài Gòn đã có tầng lớp thợ thủ công đông đảo nhiều ngành nghề, tập hợp trong các “ty thợ” của nhà nước. Có đến 62 ty thợ sản xuất hầu hết những sản phẩm phục vụ mọi mặt đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu của giới quan lại, người giàu có đến thường dân...  

Bên cạnh đó còn có hàng trăm “phường thợ” tập hợp những người sản xuất tự do trong những làng nghề khắp vùng Bến Nghé – Sài Gòn. Hệ thống địa danh ngành nghề được ghi lại trong sử sách phản ánh tính chuyên nghiệp trong sản xuất và tính thị trường cao trong lưu thông sản phẩm. Có thể kể đến những địa danh như Hàng Đinh, Xóm Chiếu, đường Thợ Tiện, cầu Muối, xóm Cốm, xóm Lá (buông), xóm Lò rèn, xóm Câu, xóm Dầu, xóm Đệm buồm, xóm Bột, xóm Đường, xóm Chỉ, xóm Lụa...

Quá trình đô thị hóa từ nửa sau thế kỷ 19 đến nay đã làm mất đi nhiều xóm nghề trong đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn, đồng thời lại làm hình thành và phát triển một số “làng nghề“ mới, do nhu cầu mới của thị trường và do luôn tiếp nhận luồng di dân và những kỹ thuật mới.

***

Bắt đầu xóm Lò Gốm với sản phẩm “gốm Sài Gòn”, ngày nay đây là loại cổ vật quý hiếm trong nhiều sưu tập tư nhân và các bảo tàng. Cho đến nay vẫn còn những tên đường Lò Gốm, Lò Siêu, Xóm Đất, cầu Lò Chén, các chành lu, chành chén dọc bến Lò Gốm, rạch Lò Gốm, kênh Lò Gốm... ở khu vực quận 6, quận 8. Quận 11 có khu lò gốm Cây Mai được người Pháp ghi nhận rất sớm, làm cho địa danh này trở thành tên gọi của một dòng gốm mỹ nghệ và trang trí kiến trúc tinh xảo và độc đáo. Dấu tích cuối cùng của “xóm Lò gốm” là lò gốm cổ Hưng Lợi ở quận 8. Kết quả khai quật cho biết mức độ sản xuất và các loại hình sản phẩm của lò Hưng Lợi và nhu cầu tiêu dùng của xã hội thay đổi khá nhanh từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 20.

Đến cuối thế kỷ 20, khu vực xung quanh lò gốm cổ Hưng Lợi chỉ còn một xóm làm bếp lò ở gần đó. Thực ra chỉ có 7-8 gia đình làm nghề “nắn ông lò”, thợ chính là người trong nhà và mướn thêm một số thợ phụ là bà con hàng xóm. Thợ chính làm mọi khâu kỹ thuật cơ bản: xử lý nguyên liệu, tạo dáng và đốt lò nung. Thợ phụ làm công đoạn tạo miếng chắn lò, vận chuyển sản phẩm vào, ra lò, bọc thân lò bằng thiếc trước khi đưa ra thị trường. Sản phẩm có lúc bán ra tận Ninh Thuận, Bình Thuận, từ tháng 10 nhà nào cũng tăng thêm thợ vì nhu cầu bếp lò tăng nhanh vào dịp Tết.

Nhiều năm nay dân cư thành phố và nhiều vùng nông thôn hầu như không còn sử dụng than, củi nữa nên nhu cầu bếp lò giảm nhiều. Cũng may vẫn còn một tục lệ rất hay khi năm hết tết đến: ngày 23 cúng ông Táo xong, ông lò cũ được cho ra vườn nghỉ ngơi bên gốc cây hay ven bờ kinh, gia đình mua ông lò mới về và đốt bếp mới cầu mong mọi sự bình an trong năm mới. Nhờ vậy chắc con cháu còn biết loại bếp “ông lò” và nghề gốm một thủa vang danh của đất Sài Gòn.

***

Trên đường Cách mạng tháng Tám – một trong hai con đường thiên lý xưa nhất của thành phố - có hai làng nghề nổi tiếng trong hai giai đoạn lịch sử. Từ quận 1 qua khỏi bùng binh ngã sáu Dân Chủ là đến khu vực Hòa Hưng. Nơi này có một làng nghề đúc đồng hình thành từ nửa sau thế kỷ 20. Khoảng năm 1954, một số người dân làng đúc đồng Ngũ Xá (Hà Nội) vào sinh sống ở khu vực này, họ cùng nhau mưu sinh bằng nghề truyền thống mang theo từ quê hương, dần dần hình thành làng nghề đúc đồng Hòa Hưng với sản phẩm chủ yếu là đồ đồng tam khí nổi tiếng và phổ biến ở phía Nam. Gần 70 năm qua làng nghề đúc đồng Hòa Hưng một thời hưng thịnh nay chỉ những người hoài cổ biết đến.  

Đây cũng là tình trạng của làng đúc đồng An Hội (Gò Vấp). Thời kỳ phát đạt, làng có đến hơn 40 lò đúc đồng. Những ngày cận Tết trong làng lúc nào cũng tấp nập người mua kẻ bán xe chở hàng đi khắp nơi. Sản phẩm nhiều loại nhưng nhiều nhất vẫn là đồ thờ cúng: lư hương, chân đèn, bát nhang... nhiều kiểu dáng truyền thống và độc đáo. Đến nay đồ thờ cúng đúc đồng thủ công với độ tinh xảo, “độc bản” thì giá thành cao nên khó cạnh tranh với đồ đồng sản xuất hàng loạt. Những nghệ nhân sống và gắn bó với làng đúc An Hội cả trăm năm đều rất trăn trở với việc giữ và truyền nghề, vì không còn thợ trẻ và con cái cũng không theo nghề nữa.

Cuối đường Cách mạng tháng Tám, qua khỏi bệnh viện Thống nhất là đến vùng Bảy Hiền, nơi người Quảng vô Sài Gòn đã lập ra làng dệt Bảy Hiền nổi tiếng, nơi những người sành ăn thường xuống chợ Bà Hoa ở đây để thưởng thức mì Quảng và nghe giọng Quảng đậm đặc như chưa hề có vài chục năm xa quê. Vào thời hưng thịnh làng dệt Bảy Hiền như một khu công nghiệp thật sự. Cả khu vực vang động tiếng máy dệt, mỗi năm sản xuất hàng triệu mét vải, có sức cạnh tranh rất mạnh so với vải của người Hoa ở Chợ Lớn hay vải nhập khẩu.

Nhưng từ đầu những năm 2000, sản phẩm của làng dệt Bảy Hiền mất dần chỗ đứng trên thị trường do hàng ngoại tràn ngập lấn át về giá thành và mẫu mã. Làng dệt có “thương hiệu mạnh” một thời nay chỉ còn một số nghệ nhân duy trì vài máy dệt sản xuất nhỏ lẻ để giữ nghề truyền thống như giữ một giá trị văn hóa của đô thị Sài Gòn.

***

Trong vùng Chợ Lớn có một Hội quán đặc biệt: Lệ Châu hội quán, nhà thờ tổ nghề thợ bạc tại Sài Gòn và cả Nam Bộ. Hội quán ra đời sớm nhất và gắn liền với ngành sản xuất và kinh doanh kim hoàn của người Hoa tại đây, sau này phát triển ra nhiều tỉnh thành Nam bộ. Qua bao thăng trầm, ngày nay địa điểm này đã trở thành một trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng, nơi hội ngộ và giao lưu kinh nghiệm của nhiều hội nhóm, nghiệp đoàn trong lĩnh vực kim hoàn.

Vào cuối thế kỷ 19, tại khu vực Chợ Lớn nghề kim hoàn và chế tác nữ trang rất phát triển, lúc bấy giờ đã có hơn 30 lò thợ bạc hành nghề. Đến giữa thế kỷ 20 Chợ Lớn là một trung tâm thủ công nghiệp nói chung và nghề kim hoàn nói riêng. Chợ Thiếc là ngôi chợ truyền thống lâu đời chuyên mua bán các mặt hàng vàng bạc. Đặc biệt đây là chợ kim hoàn lớn nhất của thành phố, vừa là “công xưởng” chuyên chế tác, gia công, sửa chữa đồ trang sức, vừa là chợ mua bán vàng, bạc, đá quý, đồ trang sức với mức độ lớn. Đặc biệt ngay trên tầng 1 của chợ là một "trường học nghề" chuyên về mỹ nghệ - kim hoàn. Sự gắn bó, liên kết chặt chẽ từ nơi sản xuất, thị trường mua bán đến truyền nghề kim hoàn trong trường hợp Chợ Thiếc thể hiện một hình thái kinh tế khá độc đáo của đô thị Sài Gòn: nơi sản xuất và phố buôn bán sản phẩm đặc trưng liên kết thành một thể thống nhất.

Khái niệm “làng nghề truyền thống” gắn sản xuất thủ công với làng cổ - hình thức cư trú truyền thống. Nhưng quá trình đô thị hóa đã biến các làng cổ thành phố phường, thợ sản xuất là thị dân. Vì vậy sự hình thành và phát triển những “phố chuyên doanh” ở TP. Hồ Chí Minh chính là sự tiếp nối “làng nghề” ở một hình thức mới để thích ứng và đáp ứng nhanh nhu cầu xã hội. Mối liên hệ này thúc đẩy và điều chỉnh quy mô sản xuất của làng nghề, mức độ nào đó góp phần bảo tồn nghề và sản phẩm thủ công truyền thống. Đặc biệt với nghề gốm, nghề đúc đồng, nghề mộc...  các sản phẩm dễ bị thay thế bởi chất liệu hiện đại, sản xuất hàng loạt nên khó tồn tại và phát triển.

***

Cuối năm nhu cầu mua sắm tăng hơn, nhất là những mặt hàng truyền thống phục vụ Tết âm lịch. Vào dịp này tại công viên Gia Định (quận Gò Vấp) thường tổ chức hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống. Những năm trước các gian hàng nổi bật là nghề mộc truyền thống với sản phẩm đồ gỗ gia dụng nhiều kiểu dáng. Năm nay hội chợ có gần 300 gian hàng trưng bày đa dạng các mặt hàng từ đặc sản ẩm thực tới hàng gia dụng, trang sức, quần áo… của TP.HCM và các tỉnh thành, vùng miền khác. Tuy nhiên các gian hàng “làng nghề” của TP. Hồ Chí Minh khá khiêm tốn nếu không chú tâm tìm kiếm.

Hiện nay TPHCM còn nhiều “làng nghề” truyền thống khác: làng nghề bánh tráng, làng nghề đan lát, làng nghề mành trúc, làng làm lồng đèn, làng nghề đan giỏ trạc, làng nghề se nhang, làng nghề làm muối; nhiều cơ sở chế biến khô thủy sản... cả “phố đông y” Hải Thượng Lãn Ông cũng có thể coi là làng nghề sản xuất nhiều loại thuốc Bắc. Những “làng nghề” này đã có thị trường nhất định, nhưng TP. Hồ Chí Minh là nơi nhiều nguồn hàng hóa đổ về, nếu “làng nghề truyền thống” không gắn liền với một khu vực “chuyên doanh” như đầu mối lớn nhất, các cơ sở sản xuất và ngành quản lý không tổ chức hình thức chuyên doanh và quảng bá mới, thì tiêu thụ sản phẩm sẽ gặp khó khăn trong bối cảnh xã hội thay đổi nhanh chóng về mọi mặt, nhất là nhu cầu tiêu dùng cả về loại hình và chất liệu hàng tiêu dùng. Nguy cơ các làng nghề thu hẹp sản xuất và mất dần nghề truyền thống, cũng là mất đi một loại hình di sản phi vật thể gắn liền và phản ánh quá trình lịch sử vùng đất Sài Gòn.

 https://nguoidothi.net.vn/lang-nghe-sai-gon-mot-thuo-vang-danh-42562.html




DI SẢN LỊCH SỬ - VĂN HÓA CÁC ĐÔ THỊ NAM BỘ NHÌN TỪ GIA ĐỊNH THÀNH THÔNG CHÍ CỦA TRỊNH HOÀI ĐỨC

Vài nét về công trình Gia Định thành thông chí Gia Định thành thông chí ( 嘉定城通志 ) còn có tên Gia Định thông chí ( 嘉定通志 ), là một quyển địa...