Ngòai kia là pháo hoa...




Chiều cuối năm, tạm kết thúc những công việc bận rộn, trở về nhà trong cái se lạnh hiếm hoi của mùa đông Sài Gòn. Giai điệu Happy New Year văng vẳng đâu đó trên đường phố đông đúc, mang lại chút bâng khuâng... Sao nghe bài này ở đâu cũng thấy buồn... một năm lại đã qua, vậy mà nhiều cái vẫn còn dở dang...

Cảm giác dở dang vì luôn chờ đợi một điều gì đó kỳ diệu sẽ đến. Như bây giờ chẳng hạn, nếu có thật một bà tiên, chắc bà sẽ mang đến cho mình một hạt dẻ chứa đầy những lời yêu thương từ nơi ấy. Hạnh phúc hiếm hoi hiện ra thóang chốc như cầu vồng một ngày mưa rào mùa hạ, bảy sắc lung linh, nhưng nhòe đi rất nhanh, chỉ còn sự nuối tiếc vì đã không giữ lại được những màu sắc kỳ diệu của nó.

Làm gì có sắc màu cầu vồng rực rỡ, chẳng qua là sự khúc xạ ánh sáng mặt trời mà thôi. Làm gì có bà tiên và những hạt dẻ thần kỳ, chẳng qua mỗi người và mọi người đếu muốn tin vào những điều kỳ diệu khi ta còn ở tuổi ấu thơ...
Dường như cả đời dở dang... Ngày hôm qua đã qua...
Một ngày mới đang đến, cho một năm mới...

XẾP HẠNG DI TÍCH LS-VH THÀNH PHỐ CHO TU VIỆN MẾN THÁNH GIÁ VÀ NHÀ THỜ THỦ THIÊM


Xếp hạng di tích lịch sử văn hóa


UBND TP.HCM vừa ban hành các quyết định xếp hạng Tu viện Hội Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm và Nhà thờ Thủ Thiêm là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố.
Cụ thể, tại các Quyết định số 5386/QĐ-UBND và Quyết định số 5387/QĐ-UBND ngày 24.12.2019 về việc xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh thành phố, UBND TP.HCM đã xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật đối với: Nhà thờ Thủ Thiêm (số 58 Khu phố 1, phường Thủ Thiêm, Quận 2, TP.HCM) và Tu viện Hội Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm (số 76 Khu phố 1, phường Thủ Thiêm, Quận 2, TP.HCM).
Các quyết định nêu rõ, nghiêm cấm mọi hoạt động xây dựng, khai thác trong khu vực di tích đã khoanh vùng bảo vệ. Trường hợp đặc biệt sử dụng đất đai ở khu vực di tích phải được phép của Chủ tịch UBND TP.HCM.
Sở Văn hoá và Thể thao TP.HCM, UBND quận 2, phường Thủ Thiêm có nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các di tích trên. Quyết định xếp hạng di tích cũng là một trong những cơ sở để thành phố xem xét điều chỉnh quy hoạch Khu đô thị mới Thủ Thiêm.
Tháng 2.2017, trước nguy cơ Nhà thờ Thủ Thiêm, Tu Viện Hội dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm bị giải tỏa, Người Đô Thị đã thực hiện chuyên đề: "Kiến trúc tôn giáo ở Thủ Thiêm: Vẻ đẹp thiện mỹ nơi đô thị". Chuyên đề này có ý kiến của các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực kiến trúc đô thị, tôn giáo, văn hóa lịch sử, pháp lý đề nghị giữ gìn và tôn tạo những công trình tôn giáo trăm năm tuổi này: 
TS. Nguyễn Quốc Tuấn (Viện trưởng Viện Nghiên cứu tôn giáo; Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia); TS. Nguyễn Thị Hậu (Phó tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam; Tổng thư ký Hội Sử học TP.HCM); PGS-TS. Nguyễn Minh Hòa (Giám đốc chương trình “Diễn đàn Quốc tế phát triển đô thị bền vững châu Á” tại Việt Nam); Giáo sư Chu HảoGS-TS. Nguyễn Minh Thuyết (Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia; nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa - Giáo dục - Thanh niên - Thiếu niên - Nhi đồng của Quốc hội); Luật sư Nguyễn Kiều Hưng (luật sư điều hành Hãng Luật Giải Phóng, TP.HCM)…
Ngày 2.2.2019 (tức 28 Tết), Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân cùng lãnh đạo thành phố đã đến thăm, chúc Tết các cơ sở, chức sắc tôn giáo, các đơn vị nhân dịp Tết Kỷ Hợi 2019, trong đó có Hội Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm và Nhà thờ Thủ Thiêm tại Khu đô thị mới Thủ Thiêm.
Tại đây, Bí thư Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh Hội Dòng mến Thánh giá và Nhà thờ là nơi phát huy được hoạt động xã hội, có truyền thống giúp đỡ, sẻ chia với những người khó khăn. Đoàn lãnh đạo cũng chia sẻ hướng giải quyết với các công trình tôn giáo ở Thủ Thiêm.
Theo đó, Phó chủ tịch UBND TP.HCM Huỳnh Cách Mạng cho hay thành phố sẽ giữ lại các công trình chính yếu của Dòng Mến Thánh giá và Nhà thờ. Các khu vực lân cận sẽ được xem xét, điều chỉnh phù hợp quy hoạch, mỹ quan trong quy hoạch chung.
Nhà thờ Thủ Thiêm đầu tiên được xây dựng vào năm 1859. Về mặt kiến trúc, Nhà thờ hiện nay không phải là nhà thờ lớn nhưng là sự tiếp nối của nhiều thế hệ giáo dân sau 160 năm qua. Tu viện Hội Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm có mặt từ năm 1840, mang kiến trúc đặc biệt và cổ xưa, hiện vẫn còn nguyên trạng. 
Song Nguyễn




Phim Giáng sinh



Mấy bữa nay TV chiếu nhiều phim về Giáng sinh. Gia đình đoàn tụ, hạnh phúc, tình yêu đôi lứa... hầu hết là những bộ phim kiểu “ngôn tình”, dù sướt mướt hay hài hước, thậm chí kinh dị, thì cũng đều có một Happy End. Không ít phim là về tình yêu của những người đã vào tuổi trung niên mà vẫn chưa tìm thấy một nửa của mình, phim về đôi lứa đã đánh mất nhau khi còn trẻ dại... Nhưng vào đêm giáng sinh họ đều tìm thấy hạnh phúc.

Tất nhiên, không phải tình yêu nào cũng phải đợi đến đêm giáng sinh mới kết thúc tốt đẹp. Giáng sinh – như là một biểu tượng của điều lành và cơ hội may mắn – là cái cớ để những gì không thể sẽ - có - thể xảy ra. Và tất nhiên, người xem hiểu được ý nghĩa biểu tượng ấy. Nhờ đó, phim về Giáng sinh luôn được đón đợi vào mùa Giáng sinh. Phim hay hoặc không hay lắm cũng đâu quan trọng khi mang lại cho người xem niềm vui về hạnh phúc của nhân vật trong phim, cảm giác bồi hồi trước những mối tình đẹp và một thông điệp vĩnh cửu: cuộc sống tốt đẹp là nhờ lòng nhân hậu và những điều tử tế.

Ừ, cuộc sống chỉ cần lòng nhân hậu và những điều tử tế. Nhưng đó lại là điều thường ít được nhận biết và hiểu đúng giá trị, bởi vì nhân hậu và tử tế thường giản dị, không màu mè gay cấn nổi bật... như những điều ngược lại.
Cũng như Hà Lan không yêu anh chàng Ngạn hiền lành chân thành đến... phát chán mà lại thích chàng Dũng ăn chơi nhưng luôn hấp dẫn.

Cho nên nghĩ ra cái này
Mắt biếc ngoại truyện
Ngày sau, một lần cháu ngoại của Hà Lan xem phim và hỏi: Bà ơi sao hồi ấy bà không yêu ông Ngạn, ông tốt thế mà? Hà Lan xoa đầu cháu và cười móm mém “Cuộc đời là thế. Bà mà yêu ông Ngạn thì hết chuyện, làm gì có phim cho cháu xem”.
Dẫu sao, vẫn mong Giáng sinh sẽ mang lại mọi điều an lành trong năm mới!


 Kết quả hình ảnh cho giáng sinh an lành 2020

MẮT BIẾC


Quanh những ý kiến khen/chê phim Mắt Biếc của Victor Vũ, và (nhân đó) khen/chê luôn tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh, mình thấy stt của Lê Phương Thảo giống suy nghĩ của mình:
Thú thiệt mình chưa bao giờ thấy truyện ảnh (NNA) viết là hay, cứ nhạt nhạt thế nào, thiếu chất văn. Nhưng mình hiểu vì sao người ta thích truyện ảnh viết, chắc chắn không phải vì văn phong, thậm chí nội dung truyện cũng thường thường bình bình, người ta thích vì sự tử tế không cay nghiệt trong truyện của ảnh. Đời sống này, được đọc những tâm tình bình dị tử tế, cũng như đang khát mà được uống ly nước mát, ngon dở tính sau”.

Mình nói thêm, người trẻ có nhiều cảm xúc với truyện NNA vì người trẻ tin vào tình cảm trong sáng, tốt đẹp, hay nói cách khác, còn sự lãng mạn trong tình yêu, kể cả sến vãi thì vẫn là cảm xúc đẹp. Nếu không còn trẻ nữa thì khi nhận ra sự ngây thơ của mình, người ta hoặc mỉm cười “ồ hóa ra mình cũng từng trong sáng như thế”, hoặc cay nghiệt: vớ vẩn, sến vãi, sao có thể yêu đương như thế, ngoài đời chả có ai dở hơi thế cả, ... và ...
Văn chương, phim ảnh hay dở/thích ko thích là tùy “gu” và còn tùy vào môi trường hoàn cảnh sống/lớn lên. Dù mình thích hay không thì khi hiểu vì sao người ta thích/ko thích tức là hiểu thêm về tác phẩm (và phần nào cả tác giả nữa).

Mình chợt nhớ một người bạn mình, dân SG chánh hiệu, con của một sĩ quan đi học tập về, cả nhà không đi theo diện HO mà vẫn sống tại SG. Bạn ấy đã đọc và thích nhiều sách văn học của các tác giả miền Bắc. Sau khi bạn đọc tiểu thuyết Quân khu Nam Đồng, mình hỏi thấy thế nào, thích ko? bạn chỉ nói “đọc cuốn này mình hiểu thêm về những người vào tiếp quản Sài Gòn sau 1975” (lưu ý, người tiếp quản là dân sự).

P/S. Thêm stt của Hà Quang Minh
Mấy bữa nay thấy đủ mọi bình luận về việc xây dựng hình tượng nhân vật trong Mắt Biếc, đặc biệt là Ngạn.
Khen chê đủ cả.
Chỉ muốn nhắc chúng mày là: “Thằng NGẠN-chúng-mày-muốn-nó-phải-thế không phải là thằng-NGẠN-trong- phim hay thằng NGẠN-nào-đó-ngoài-đời mà đó là chính bản thân chúng mày muốn chúng mày như thế hoặc những tình nhân dở hơi dở hồn của chúng mày phải thế”.
Bàn về tính cách một con người phải như thế nào cho CHUẨN đã là quá rảnh. Bàn về tính cách một nhân vật hư cấu phải là thế nào mới CHUẨN còn là bố của rảnh.

Kết quả hình ảnh cho mắt biếc phim

BẢO TỒN DI TÍCH – TRÁCH NHIỆM Ở ĐỊA PHƯƠNG


Từ nhiều năm nay thực trạng di tích lịch sử văn hóa bị xâm phạm, phá hoại và phá hủy đã trở thành những hồi còi báo động khẩn cấp nhưng... phổ biến đến mức trở nên bình thường! Những di tích cấp Quốc gia, cấp tỉnh thành xuống cấp nghiêm trọng, di tích đã trở thành phế tích hoặc có nguy cơ “biến mất” do hư hỏng nặng mà không có kinh phí sửa chữa, trùng tu... Thực trạng này phản ánh tư duy và việc thực hiện chức trách của bộ máy quản lý di sản văn hóa ở các địa phương đã và đang không đáp ứng, không phù hợp với công tác bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Có thể nói bắt đầu từ việc số lượng di tích được xếp hạng tăng rất nhanh nên nhân lực quản lý, kinh phí bảo tồn và trùng tu đều thiếu hụt nghiêm trọng. Bên cạnh đó là ý thức của cộng đồng nói chung, đặc biệt trong trường hợp liên quan đến tranh chấp đất đai, nên việc phá hủy di tích trở nên phổ biến. Mặt khác, việc khai thác di tích chưa đúng cách, không phù hợp cũng làm ảnh hưởng đến giá trị của di tích, như quảng cáo và giới thiệu sai lệch nội dung, việc “hạ giải trùng tu” mà thực chất là phá hủy di tích cổ xưa để xây dựng công trình mới ngày càng nhiều, không chỉ đối với di tích ở làng quê xây dựng bằng vật liệu không bền vững như gỗ mà còn xuất hiện ở những di tích xây dựng bằng vật liệu bền vững và tuổi đời khoảng một thế kỷ ở các đô thị.
Tình hình kéo dài như vậy làm cho các di tích dù cấp nào cũng dần dần trở nên giống nhau ở xu hướng ngày càng “hoành tráng” thậm chí không còn nhận ra yếu tố truyền thống nữa. Như vậy là đã làm cho di tích trở nên thật giả lẫn lộn về giá trị, về nội dung…
Ở một góc độ khác thì những di tích thực sự có giá trị lại đang không được bảo tồn trùng tu một cách xứng đáng.TP Hồ Chí Minh có hai di tích di tích khảo cổ học cấp Quốc gia nổi tiếng là Di tích mộ chum Giồng Cá Vồ (xã Long Hoà, huyện Cần Giờ) và Di tích Lò gốm cổ Hưng Lợi (P.16 quận 8). Đây là hai di tích đại diện cho hai thời kỳ lịch sử - văn hoá của thành phố. Di tích Giồng Cá Vồ khai quật năm 1994, là loại hình di tích mộ táng bằng chum gốm còn nguyên di cốt và nhiều đồ tuỳ táng quý giá, thuộc nền văn hoá khảo cổ Đồng Nai niên đại khoảng 2500 năm cách ngày nay. Từ mười mấy năm nay Sở VHTT lập phương án tiếp tục khai quật và lập bảo tàng tại chỗ để bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá – du lịch phối hợp với vùng du lịch sinh thái Cần Giờ. Tuy nhiên đến nay dự án vẫn chưa tiến triển được. Với đặc điểm là di tích mộ chum nằm dưới lòng đất nên nếu để càng lâu thì các chum này càng hư hỏng nặng hơn, không thể bảo tồn được di cốt và đồ tuỳ táng trong đó. Chúng ta có nguy cơ mất một di tích khảo cổ học có giá trị đặc biệt quý hiếm đối với khảo cổ học VN và ĐNA.
Với Lò gốm cổ Hưng Lợi – di tích hiếm hoi của “Xóm lò gốm Sài Gòn xưa”, niên đại khoảng thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là Di tích LSVH quốc gia từ 1998. Trải qua gần hai mươi năm di tích đã trở thành “phế tích” đúng nghĩa. Giá trị của di tích đã giảm đi rất nhiều khi mà không được bảo tồn, trùng tu, bị lấn chiếm và hầu như rất khó khăn cho việc tham quan, tìm hiểu nghiên cứu… Do không được bảo vệ và bảo tồn trùng tu kịp thời nên di tích hư hỏng rất nặng và vừa bị người dân thuê xe ủi san phẳng, xóa sổ hoàn toàn! Trường hợp này là một điển hình về sự vô trách nhiệm trong công tác quản lý di sản của địa phương.
Gần đây nhất là tình trạng di chỉ khảo cổ học Vườn Chuối ở ở thôn Lai Xá, xã Kim Chung, H.Hoài Đức, TP.Hà Nội, Đây là di chỉ khảo cổ học có niên đại và giá trị về văn hóa - lịch sử vô cùng quý hiếm, có thể nói độc nhất vô nhị của Hà Nội.
Để di tích thực sự có giá trị cần bắt đầu từ việc rà soát hệ thống di tích cấp quốc gia, sau đó là di tích cấp tỉnh thành - với những tiêu chí thực sự khoa học và đặt trong bối cảnh của phát triển kinh tế - xã hội, của đời sống cộng đồng đang có nhiều biến đổi. Đồng thời, để có thể bảo tồn và phát huy giá trị thực sự tiêu biểu của từng di tích cần có sự phối hợp tốt giữa các cơ quan quản lý có liên quan (văn hóa, tài nguyên môi trường, quy hoạch, xây dựng, luật pháp, chính sách...).
Tuy nhiên, ý thức của chính quyền và trách nhiệm của cơ quan quản lý di sản ở địa phương là yếu tố cực kỳ quan trọng: đó là việc tuyên truyền giải thích cho cộng đồng về giá trị di tích và phải thường xuyên kiểm tra, ngăn ngừa sự phá hủy di tích. Có như vậy mới kịp thời bảo vệ di tích, đề xuất những biện pháp, thậm chí cả chính sách, để phù hợp với thực trạng bảo tồn di sản văn hóa.
Nguyễn Thị Hậu

Số phận các di chỉ khảo cổ học: Trách ai vì những vụn vỡ này?


1. Trong sự phát triển bảo tàng học hiện đại có xu hướng “bảo tàng hóa di sản văn hóa”. Theo nghĩa rộng đó là bảo tồn và phát huy tất cả các di sản văn hóa (động sản và bất động sản) đã bị/được đưa ra khỏi môi trường tồn tại ban đầu (di chỉ, di tích khảo cổ) và đặt trong một môi trường nhân tạo do con người tổ chức ra - đó là các bảo tàng. Còn theo nghĩa hẹp đó là một phương án tối ưu và hiện đại nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa ngay trong môi trường sinh thái nhân văn, nơi di sản văn hóa được sáng tạo ra và đang tồn tại gắn bó với cộng đồng cư dân là chủ thể của những di sản văn hóa ấy.
Xu hướng này được cụ thể hóa bằng việc xây dựng các “bảo tàng tại chỗ” bao gồm chứng tích của môi trường tự nhiên, của con người  hoạt động lao động sản xuất, sinh hoạt... do một cộng đồng/nhóm cư dân cổ tạo nên trong một bối cảnh tự nhiên – xã hội ở một trình độ nhất định. Chính vì vậy mà di vật từ những di chỉ khảo cổ học thời tiền sử là hiện vật trưng bày không thể thiếu trong các bảo tàng lịch sử xã hội ở vùng miền, quốc gia, đồng thời ý nghĩa quan trọng và giá trị cao hơn nếu được bảo tồn và xây dựng thành “bảo tàng tại chỗ”, vì thông qua những gì cộng đồng dân cư cổ đại để lại (cấu trúc di chỉ, công cụ lao động sản xuất, vật dụng sinh hoạt, tàn tích thức ăn, di cốt người, động vật…) cộng đồng dân cư hiện nay có thể nhận biết điều kiện sống và kỹ thuật sản xuất cùng với sự thích nghi với môi trường tự nhiên của người xưa. Qua đó là lịch sử một vùng đất, một cộng đồng được tiếp nối lâu dài.
Quá trình đô thị hóa đã và đang làm cho nhiều di tích lịch sử văn hóa – đặc biệt là các di chỉ khảo cổ học - bị xâm phạm và hủy hoại. Thực trạng đã gióng lên những hồi còi báo động khẩn cấp nhưng... phổ biến đến mức trở nên bình thường! Vai trò của chính quyền địa phương, đặc biệt là quản lý di sản văn hóa đã phản ánh tư duy và trách nhiệm của họ hiện nay không còn đáp ứng và không phù hợp với công tác bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Cùng với đó những bất ổn trong quy hoạch đất đai trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và những chính sách kèm theo cũng là “thủ phạm” đã hủy hoại hàng loạt di chỉ khảo cổ học và nhiều công trình di sản văn hóa.

2. Hàng chục năm trước đây di chỉ khảo cổ học nổi tiếng Bình Đa (thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai) cũng đã “biến mất” do nhu cầu đô thị hóa. Từ những năm 1978-1980 di chỉ này đã được khai quật và phát hiện nhiều tư liệu mới về văn hóa khảo cổ Đồng Nai. Tại đây tìm thấy hàng ngàn công cụ đá, đồ gốm, đặc biệt là việc phát hiện bộ đàn đá Bình Đa ngay trong địa tầng cho thấy đàn đá được cư dân cổ chế tác tại chỗ cách đây trên 2.500 năm. Qua đó phản ánh đời sống cư dân thời nguyên thủy thuộc văn hóa khảo cổ Đồng Nai khá phong phú về vật chất và tinh thần. Tuy nhiên di chỉ này dù có giá trị quan trọng như vậy nhưng trong thập niện 1980 cũng phải khai quật nhiều lần nhằm “giải tỏa” nhường chỗ cho “đô thị hóa” và nay đã trở thành một phường đông đúc của thành phố Biên Hòa.
Đấy là di chỉ khảo cổ dưới lòng đất khi phát hiện và khai quật còn chưa được xếp hạng di tích, còn có di tích tồn tại sừng sững trên mặt đất cũng không thoát khỏi số phận bị phá hoại. Đó là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia Lò gốm cổ Hưng Lợi niên đại khoảng thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Trải qua hơn hai mươi năm từ khi khai quật và làm hồ sơ xếp hạng (1998), di tích Lò gốm cổ Hưng Lợi đã thành “phế tích, tàn tích”. Giá trị của di tích đã giảm đi rất nhiều do không được bảo tồn, trùng tu, bị người dân lấn chiếm và ngăn cản, gây khó khăn cho việc tham quan, tìm hiểu nghiên cứu… Di tích bị hư hỏng sụp đổ nặng nề và mới hồi giữa năm 2019, do tránh chấp đất đai kéo dài chưa được giải quyết, người dân đã thuê xe ủi san phẳng, xóa sổ hoàn toàn dấu tích duy nhất còn lại của “xóm Lò Gốm” nổi tiếng của đô thị Sài Gòn.
Gần đây nhất ngay trong tháng 10 và 11/2019 truyền thông dồn dập lên tiếng về việc di chỉ khảo cổ học Vườn Chuối (thôn Lai Xá, xã Kim Chung, H.Hoài Đức, TP.Hà Nội) bị xâm phạm nghiêm trọng mặc dù vừa được khai quật khẩn cấp, nhưng ngay sau đó việc xây dựng đường nội bộ và san nền khu đô thị mới Kim Chung – Di Trạch đã xâm phạm vào khu vực di tích khảo cổ học, thậm chí làm ảnh hưởng đến các hố vừa khai quật còn đang được tiếp tục nghiên cứu.  
Đây là di chỉ khảo cổ học có niên đại và giá trị về văn hóa - lịch sử vô cùng quý hiếm, có thể nói độc nhất vô nhị của Hà Nội. Những di tích, di vật thu được trong những đợt thăm dò, khai quật từ nhiều năm trước đã minh chứng rõ nét nhất cho quá trình cư trú, các sinh hoạt thường nhật và tình trạng sản xuất các ngành nghề thủ công như đúc đồng, chế tác đồ đá, đồ gỗ, đồ gốm, đan lát, dệt vải… của cộng đồng cư dân cổ di chỉ Vườn Chuối qua nhiều giai đoạn lịch sử.
Đợt thăm dò, khai quật mới nhất gần đây phát hiện thêm di tích mộ táng, vết tích bếp, lò nấu đồng, hố chôn cột, hố đất đen, dải gốm đất nện, cụm gốm, nhiều vết tích thực vật, hiện vật tre, gỗ và nhuyễn thể nằm dưới đáy ao hồ cổ, tàn tích động thực vật... Trong đó đáng chú ý là việc phát hiện 10 mộ táng thời Đông Sơn được chôn cất trong các giai đoạn khác nhau phân bố đậm đặc trong một phạm vi chưa đầy 30m2 ở di chỉ Vườn Chuối. Tất cả những tài liệu thu được từ đợt thăm dò, khai quật di chỉ Vườn Chuối lần này và tư liệu từ các đợt khai quật trước đã góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của cư dân Tiền Đông Sơn - Đông Sơn trong một môi trường sinh thái cụ thể đồng thời có tính tiêu biểu cho không gian văn hóa tiền sử ở khu vực cao đồng bằng Bắc bộ.
Giá trị và ý nghĩa quan trọng của di chỉ Vườn Chuối ở chỗ, đây là một trong số rất ít các di tích có sự phát triển liên tục qua nhiều văn hóa khảo cổ từ Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn, góp phần củng cố những bằng chứng của quá trình lịch sử lâu dài và liên tục của đất nước, trong đó vùng đất Hà Nội cổ có một vị trí đặc biệt quan trọng. Do đó cụm di chỉ Vườn Chuối xứng đáng được đưa vào danh mục kiểm kê di tích lịch sử văn hóa và xếp hạng là di tích khảo cổ học của thành phố Hà Nội.

3. Ba trường hợp kể trên là đều ba di tích khảo cổ học nổi tiếng, có niên đại khác nhau nhưng đều được đánh giá cao về giá trị khoa học và ý nghĩa lịch sử đối với địa phương và cả nước. Sự hủy hoại các di tích này đều có thể thấy từ một nguyên nhân chung: quá trình đô thị hóa ở địa phương mà cụ thể là khu vực có di tích đã tác động trực tiếp làm cho di tích “biến mất”.
Trường hợp di chỉ Bình Đa ở tỉnh Đồng Nai từ cuối thế kỷ 20 chính là tình trạng hiện nay ở các địa phương. Rất nhiều nền văn hóa khảo cổ được phát hiện, khai quật từ thập kỷ 1970 cho đến cuối thế kỷ 20 nhưng cho đến nay đi khảo sát lại thì nhiều di chỉ đã không còn dấu tích.  Tháng 10/2019 tại Hội thảo khoa học quốc gia “Thời đại Hùng Vương trong tiến trình lịch sử Việt Nam”, theo khảo sát của Viện Khảo cổ học thì sơ bộ vào năm 2000 có trên 1.000 di tích thời Đông Sơn, nhưng chỉ ít năm sau đó, tình trạng bảo tồn các di tích trở nên đáng báo động: Đầu năm 2019 đã mất trên 50% di tích thuộc thời đại này. Riêng Phú Thọ, Vĩnh Phúc các di tích thời đại Hùng Vương và tiền Hùng Vương mất tới 90%, nghĩa là gần như bị phá hủy hoàn toàn. Giới khảo cổ cũng nhấn mạnh, có những di tích mà nếu giữ được thì xứng tầm di sản thế giới như di tích Phùng Nguyên ở Phú Thọ là di tích lớn, mở đầu cho thời kỳ tiền Hùng Vương; di tích Đông Sơn ở Thanh Hóa là chứng minh cho đỉnh cao của văn hóa Đông Sơn thời các Vua Hùng. “Một vài thập kỷ không xa, nếu cứ đà “bảo vệ” như thế này các di tích thời đại Hùng Vương và tiền Hùng Vương cơ bản không còn tồn tại trên đất nước ta...”, PGS.TS Tống Trung Tín Chủ tịch Hội Khảo cổ học VN nhấn mạnh. Có nghĩa là những chứng tích của thời kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước đầu tiên không còn nữa.
Còn trường hợp Lò gốm cổ Hưng Lợi lại là một điển hình về sự vô trách nhiệm trong công tác quản lý và bảo tồn di sản văn hóa, cả từ góc độ ngành văn hóa là Sở Văn hóa Thông tin và quản lý địa phương là quận 8. Ngay từ khi được xếp hạng di tích quốc gia vào năm 1998 đã có sự tranh chấp về nguồn gốc phạm vi của di tích giữa chính quyền quận 8 và một số hộ dân là lớp người đầu tiên đến đây khai phá, cư trú quanh khu lò gốm cổ từ giữa thế kỷ 20. Từ đầu những năm 2000 khu vực phường 16 quận 8, nơi có di tích Lò gốm cổ Hưng Lợi, phát triển đô thị hóa rất nhanh chóng, giá đất tăng chóng mặt, quanh di tích mọc lên hàng loạt khu nhà mới... Việc tranh chấp khu vực di tích càng trở nên gay go. Do không có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan để giải quyết nhanh chóng và triệt để nên di tích ngày càng bị “bao vây, cô lập”, thậm chí bị “xẻ thịt” do người dân xây nhà mới thường xuyên đến đây phá di tích để lấy xà bần về đắp nền móng. Và đỉnh điểm là việc di tích bị san phẳng không thể cứu vãn được nữa!
Cùng loại hình di tích khảo cổ trên mặt đất còn có các ngôi mộ cổ hoặc những công trình kiến trúc tuổi đời trên một trăm năm, thậm chí cả những hàng cây cổ thụ là hệ sinh thái không thể thiếu được trong đô thị -  cũng bị bị di dời, phá hủy phục vụ nhu cầu đô thị hóa, nhu  cầu hiện đại hạ tầng giao thông...
Còn với di chỉ Vườn Chuối, chính vì khu vực Vườn Chuối gồm ba gò:Vườn Chuối, Dền Rắn và Mỏ Phượng nằm trong phạm vi dự án Khu đô thị mới Kim Chung - Di Trạch do Tổng Công ty Cổ phần Thương mại Xây dựng Vietracimex làm chủ đầu tư, trong đó phía Tây gò Vườn Chuối lại nằm trong phạm vi mở đường quy hoạch vành đai 3,5 của thành phố. Việc chủ đầu tư khu đô thị mới tiến hành san lấp và xâm hại khu di chỉ không phải mới gần đây, nhưng chỉ đến khi di chỉ xuất lộ cả mộ táng, các di vật vung vãi khắp nơi, có cả hiện tượng đào trộm lấy cổ vật... thì người dân đã phải lên tiếng và qua truyền thông, cấp quản lý cao nhất về di sản văn hóa là Bộ Văn hóa Thông tin mới “khẩn trương vào cuộc”. Tuy nhiên, sự tích cực của ngành văn hóa và các nhà khảo cổ học chưa đủ để cứu vãn di chỉ quý giá này, mà cần phải có cả sự “vào cuộc khẩn trương” của thành phố Hà Nội vì chính sự bất cập trong quy hoạch đô thị và giao thông đã khiến số phận của một di sản đang bị bào mòn và có thể mất vĩnh viễn nếu không khẩn cấp bảo vệ.

4. Đặt trong bối cảnh quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thì thực trạng phá hủy di sản văn hóa nói chung và di tích khảo cổ học nói riêng ở các địa phương (nông thôn cũng như đô thị) là sự phản ánh mâu thuẫn giữa “bảo tồn và phát triển”. Mặc dù Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương đều lấy “phát triển bền vững” làm mục tiêu nhưng không nhờ thế mà mâu thuẫn này được giảm nhẹ nmà ngược lại, ngày càng gay gắt. Không thể không nhận thấy lợi ích có được từ đất đai thông qua sự lợi dụng, lạm dụng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch đô thị hóa... là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự phá vỡ quy hoạch và hàng loạt bất ổn trong xã hội. Vậy phải bắt đầu từ đâu để giảm thiểu tình trạng này?

Vẫn phải bắt đầu từ một chính sách quan trọng ở địa phương, đó là việc xây dựng và triển khai Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 5 năm, 10 năm với tầm nhìn xa hơn. Trong đó, phải xây dựng quy hoạch bảo tồn di sản văn hóa phải được coi trọng và đặt  tầm quan trọng ngang với quy hoạch của các ngành, lĩnh vực khác. Đồng thời phải được ưu tiên, dành điều kiện thuận lợi và phù hợp để triển khai, đi trước, làm cơ sở cho việc quy hoạch các khu đô thị hoặc khu công nghiệp. Qua khai quật, khảo sát sẽ đánh giá được giá trị của từng di chỉ, di tích và có phương án nghiên cứu hay bảo tồn phù hợp nhằm mục tiêu vừa đạt kết quả về khoa học vừa phục vụ sự phát triển của địa phương. Do đó tầm nhìn của chính quyền địa phương, sự phối hợp liên kết giữa các cơ quan quản lý có liên quan (văn hóa, tài nguyên môi trường, quy hoạch, xây dựng, luật pháp, chính sách...) là điều kiện đầu tiên để quy hoạch bảo tồn di sản được thực hiện.
Quy hoạch bảo tồn di sản thông qua các dự án, đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản trong nhiều năm gồm: triển khai chương trình khảo sát hệ thống, loại hình di sản văn hóa, hệ thống di tích khảo cổ học dưới và trên mặt đất; Khai quật nghiên cứu các di chỉ khảo cổ học... Từ đó có kế hoạch xây dựng bảo tàng tại chỗ đối với những di tích có giá trị khoa học to lớn, có khả năng chuyển đổi từ “giá trị di sản” thành “tài nguyên di sản”, với những di tích khác thì thu thập hiện vật tài liệu trưng bày tại các bảo tàng. Có như vậy mới tránh được tình trạng phá hủy di tích bừa bãi di tích hoặc phải “khai quật chữa cháy” để cứu vãn di tích. Quy hoạch bảo tồn di sản sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, đồng thời nâng cao hiểu biết của cộng đồng về ý nghĩa về lịch sử - văn hóa của mảnh đất nơi mình đang sống.
Tuy nhiên, ý thức của chính quyền và trách nhiệm của cơ quan quản lý di sản ở địa phương là yếu tố cực kỳ quan trọng: đó là thường xuyên cùng với các nhà khoa học tuyên truyền giải thích cho cộng đồng về giá trị di tích, kiểm tra, ngăn ngừa sự phá hủy di tích, kịp thời bảo vệ di tích, chủ động đề xuất giải pháp phù hợp với thực trạng bảo tồn di sản văn hóa. Đồng thời, chính quyền địa phương còn đóng vai trò chủ yếu để tác động lên cấp quản lý cao hơn trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, bằng việc xây dựng, sửa đổi những chính sách “từ trên xuống” nhưng phải được xây dựng  bằng tri thức thực tiễn “từ dưới lên”.

Nguyễn Thị Hậu
Sài Gòn 18.11.2019

LỊCH SỬ, SỰ THẬT VÀ SỬ HỌC - GS. Hà Văn Tấn


Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Hà Văn Tấn, người được mệnh danh là Lê Quý Đôn của thế kỷ 20, người cuối cùng trong tứ trụ của sử học Việt Nam, vừa từ trần vào 21h02 ngày 27-11 tại Hà Nội.


“Ai ai đều đã bằng câu hết
nước chẳng còn có Sử Ngư”
Đó là hai câu thơ trong bài thơ cuối cùng của mười bốn bài “mạn thuật” mà Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta. Thật là cay đắng khi mà mọi người uốn cong như lưỡi câu, và chẳng còn ai nói lên sự thật nữa, chẳng còn ai như Sử Ngư nữa. Sử Ngư là một chép sử nước Vệ thời Xuân Thu, nổi tiếng về thẳng thắn và trung thực. Khổng Tử đã từng khen: “trực tai Sử Ngư” (Sử Ngư thẳng thay)
Cho đến hôm nay, đọc câu thơ Nguyễn Trãi chúng ta vẫn như tê tái với nổi đau của ông, làm sao có thể sống trong xã hội mà mọi sự thật đều bị che đậy và xuyên tạc. Trong những thời kỳ như vậy, người chép sử, nhà sử học, những người có nhiệm vụ nói lên sự thật, không biết bị dằn vặt như thế nào? Ngày nay chúng ta đang sống trong một giai đoạn cần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật đáp ứng yêu cầu của nhân dân của đất nước. Đã đến lúc những người chép sử, nhà sử học phải tự hỏi rằng “sử bút” của mình có thật nghiêm chưa, đã viết đúng sự thật lịch sử hay chưa?
Từ thời cổ đại người ta đã yêu cầu cho việc chép sử là nêu gương cho nhân dân và đem lại bài học cho những nhà cầm quyền. Polibious, nhà sử học Hy Lạp vào thế kỷ 2 TCN, đã nhận thấy rằng sử học có tính Pagmatikos, tức thực dụng. Trong các vị thần Muses Hy Lạp thì nữ thần Clio là thần sử học, nhưng tên Clio là bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là Kleio nghĩa là ca tụng, biểu dương.
Ơ Phương Đông Khổng Tử viết kinh Xuân Thu, bộ sử lớn của Trung Quốc cổ đại, là cốt để “bao biến” tức là khen và chê các hành vi của nhân vật lịch sử. Cái mẫu mực sử học thực dụng còn tồn tại rất lâu dài về sau, nhất là ở Phương Đông. Ta hãy đọc những dòng của Phạm Công Trứ trong bài tựa sách đại việt sử ký tục biên : “Vì sao phải viết quốc sử? Vì sử chủ yếu ghi chép công việc. Có chính trị của một đời tất phải có sử của một đời mà sự ghi chép của sử giữ nghị luận rất nghiêm, tụ điểm việc trí trị thì sáng tỏ ngang với mặt trời, mặt trăng, răn đe kẻ loạn tặc thì ráo riết như sương thu lạnh buốt, người thiện biết thì có thể bắt chước, người ác biết thì có thể tự răn, quan hệ với chính trị thì không thể là ít, cho nên mới làm ra quốc sử”
Một mục đích thực dụng như vậy đặt ra cho sử học tất nhiên đã ngăn cản không ít việc nói lên sự thật của lịch sử. Thường thì người ta chỉ chọn chép những sự kiện nào có lợi cho đường lối chính trị, hoặc làm thay đổi sự kiện cho phù hợp với ý muốn của nhà cầm quyền.
Nhưng ngay trong hàng ngũ các nhà sử học thời cổ cũng đã có người cho rằng cần làm thế nào để phục vụ đời sống và chính trị không làm haị đến thiên chức nói sự thật của nhà sử học. Chẳng những thế, họ còn cho rằng sử có chép đúng sự thật thì mới phục vụ tốt cho đời sống và chính trị. Ciceron ở la mã đã gắn historia magistra vitae(lịch sử chính yếu của cuộc sống) với yêu cầu đạt tới Lus Veritatis (ánh sáng của sự thật. Trong Deoratore, ông đã viết “luật thứ nhất của chép sử là không giám nói cái giả mạo, luật thứ hai là giám nói tất cả những gì là sự thật”.
Còn Lê Quý Đôn của chúng ta, ở đầu tập Đại Việt thông sử, đã dẫn một loạt các câu nói của các nhà sử học đời trước để coi việc chép sử đúng sự thật như một tôn chỉ của việc soạn sử. Và để giữ được tôn chí đó, cuối cùng ông đã chép lại câu của Yết Hề Tư đời Nguyên “ việc soạn sử phải lấy việc dùng người làm gốc, người có văn mà không biết chép sử thì không thể dự vào sử quán. Người có văn học lại kiêm biết cách soạn sử, nhưng bụng dạ bất chính cũng không được dự”.
Từ thế kỷ thứ 17 sử học thế giới đạt đến mẫu mực phê phán, đặt yêu cầu đem lại sự thật quá khứ. Và từ cuối thế kỷ thứ 19, khi sử học đạt đến mẫu mực cấu trúc và biện chứng, các hình ảnh của quá khứ mà sử học khôi phục còn phải được đặt trong cái toàn thể và sự vận động.
Nhưng biết sự thật không dễ, và dám nói lên sự thật nhiều khi càng khó hơn. Với ý của Yết Hề Tư mà Lê Quý Đôn đã dẫn, nhưng nói theo ngôn ngữ hiện đại thì như thế này :Muốn viết sử phải biết phương pháp sử học và trước hết phải là người trung thực chứ không phải là tên cơ hội .
Viết sử là một nghề, nói như người pháp là Métier D Historien. Người viết sử phải được luyện rèn tay nghề. Cách dạy nghề, tức các sách viết về phương pháp sử học, thường nói đến hai bước cơ bản trong công tác sử học : bước thứ nhất là từ sử liệu, khôi phục sự kiện; bước thứ hai là giải thích và đánh giá sự kiện.
Ngay từ bước thứ nhất đã có những khả năng dẫn nhà sử học xa rời sự thật, đó là vì sử liệu thiếu, và phổ biến hơn vì sử liệu không được phê phán nghiêm túc. Nguời ta chia sử liệu ra làm hai loại: sử liệu trực tiếp và sử liệu gián tiếp. Sử liệu trực tiếp xuất hiện cùng với sự kiện, chẳng hạn trống đồng Ngọc Lũ, khẩu pháo điện biên hay văn bản hiệp nghị Paris… là sử liệu trực tiếp. Còn sử liệu gián tiếp là sử liệu nói đến sự kiện này qua một thông tin gián tiếp, tức tác giả sử liệu. Loại sử liệu này cần được giám định cẩn thận vì thông tin nhận được đã qua trung gian người thông tin. Chẳng hạn hồi ký là sử liệu gián tiếp. Ở đây các sự kiện xảy ra không đồng thời với sử liệu, tức là trước lúc hồi ký được viết nhà sử học Liên Xô M.N.Thernomorski đã viết cả một quyển sách dày, có đầu đề “ hồi ký với tư cách là sử liệu lịch sử” để trình bày các phương pháp để nghiên cứu nguồn sử liệu gián tiếp này.
Hiện nay nhiều công trình nghiên cứu sử học của chúng ta đã sử dụng những nguồn sử liệu gián tiếp một cách thiếu thận trọng. Sử liệu gián tiếp bao gồm cả những lời kể về sau của những người đã chứng kiến sự kiện. Các nhà nghiên cứu lịch sử địa phương hay lịch sử hiện đại, lịch sử đảng thường sử dụng nguồn tài liệu này, những lời kể như vậy thường được phân tích so sánh với các tư liệu khác, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng là cùng một sự kiện, có thể được trình bày rất khác nhau. Tình hình càng xảy ra là nếu người thông tin là người hiện có uy lực chi phối ở địa phương thì lịch sử sẽ được viết theo cách nhìn nhận của người đó.
Đối với các thời kỳ xa xưa, sự sai lầm càng dễ xảy ra, vì sử liệu càng hiếm hơn, khó kiểm tra hơn. Trong nhiều trường hợp để khôi phục sự kiện nhà sử học phải vận dụng đến sự suy đoán lôgích, và thậm chí cả sự tưởng tượng. Nhưng trong trường hợp sự kiện được trình bày mới chỉ là giả thiết thì điều đó phải được nói rõ, đừng để người khác tin rằng đó là sự thật đích xác. Trong nhiều công trình sử học hiện nay, cái mới chỉ là giả thuyết với cái đã là sự thật, thường bị làm lẫn lộn.
Chẳng hạn không một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” là của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết điều đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chiến chống quân Tống ở sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát, cóthể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ. Nhưng đó chỉ là đoán thôi, làm sao nói chắc đựơc đó là bài thơ của Lý Thường Kiệt. Thế nhưng cho đến nay, mọi người tin rằng đó là sự thật, hay đúng hơn không ai giám nghi ngờ đó không phải là sự thật.
Ta còn có thể dẫn ra những ví dụ khác về những sự kiện chắc là không thật mà nay nghiễm nhiên là “sự thật”, ngay cả trong giai đoạn lịch sử gần đây.
Các nhà sử học thường chủ yếu dựa vào nguồn sử liệu viết. Mà nước ta, các văn bản sử liệu thường bị biến chuyển ghê gớm. Đó là chưa kể sự xuất hiện những tài liệu giả. Nếu trình bày sự kiện mà dựa vào sử liệu đã bị biến đổi hay sử liệu giả thì hiển nhiên không tránh khỏi những sai lầm.
Chẳng hạn, cuốn Binh thư yếu lược hiện có, được coi là của Trần Hưng Đạo, là một cuốn sách giả từ đầu chí cuối . Các nhà nghiên cứu viện Hán Nôm vừa làm một việc có ý nghĩa là chứng minh được cuốn sách giả mạo đó đã hình thành như thế nào. Thế nhưng khi viết về cuộc kháng chiến chống Nguyên hay về Trần Hưng Đạo, một số người vẫn dùng cuốn sách giả này. Thậm chí có lãnh tụ đã trích dẫn cuốn sách này trong diễn văn của mình. Đó là lỗi của các nhà sử học, họ đã không thuyết minh đầy đủ khi cho in bản dịch tác phẩm giả mạo này.
Còn các văn bản bị biến đổi, sữa chữa qua các thời kỳ rất nhiều. Thậm chí các văn bản hiện đại. Ngay bức thư của chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các em học sinh mà hiện nay các em trong trường phổ thông vẫn học, vẫn trích, cũng đã sai, khác nhiều với văn bản đầu tiên còn được cất giữ ở cục lưu trữ Trung Ương. Các văn kiện khác cũng vậy. Về điểm này cần phải học tập thái độ của Mac và Angghen khi cho xuất bản Tuyên ngôn Đảng cộng sản năm 1872, hai ông viết rằng “Tuyên ngôn là một tài liệu lịch sử mà chúng tôi không có quyền sửa lại”. Các nhà sử học đòi hỏi phải có một thái độ như vậy đối với các văn kiện lịch sử.
Trên đây là chuyện phê phán sử liệu và miêu tả sự kiện, thực ra sự thật sẽ bị che lấp hay xuyên tạc là ở bước thứ hai, giải thích và đánh giá sự kiện. Đó là vì công việc này phụ thuộc vào mặt chủ quan của nhà sử học như quan điểm, nhận thức và nhân cách. Các nhà sử học chúng ta thường tự coi là người matxit nhưng bệnh thiên lệch lại hay dễ mắc. Mà thiên lệch, cường điệu một cách phiến diện, một mặt nào đó lại là đặc trưng của chủ nghĩa duy tâm . Vì vậy, nhiều sự thật lịch sử đã bị bỏ qua.
Trong một thời gian dài, do một động cơ tốt là phải tập trung binh lực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các nhà viết sử chỉ chú ý đến các trang sử chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc. Không chỉ trong các công trình chuyên luận, mà cả trong các bộ thông sử, cũng chỉ tập trung khai thác truyền thống đánh giặc giữ nước. Một nhà sử học Liên Xô khi bình luận một quyển sử Việt Nam do Uỷ Ban Khoa học Xã hội xuất bản đã có một nhân xét thú vị là các bản đồ trong sách, trừ một bản đồ hình thể chung, đều là bản đồ các trận đánh. Trong thời gian qua, hàng loạt các vấn đề kinh tế – xã hội của lịch sử Việt Nam đã không được chú ý đầy đủ.
Cũng là đề cao truyền thống, chúng ta thường đánh giá một chiều, chỉ nhận thấy cái hay cái tốt, dường như người ta không chấp nhận có truyền thống xấu. Đến nay, trong công cuộc xây dựng đất nước, chúng ta đang cần đánh giá đúng về con người Việt Nam, mà phần lớn là tính cách, khả năng đã được quy định qua lịch sử. Phải phân tích trung thực và khoa học các ưu điểm và nhược điểm của con người Việt Nam, chứ không phải cái gì cũng khen.
Chúng ta đã được đọc cả một cuốn sách dày đề cao truyền thống khoa học kỹ thuật Việt Nam. Tôi nghĩ truyền thống khoa học kỹ thuật Việt Namcũng đã đạt được một số thành tựu về kỹ thuật. Nhưng đề cao quá đáng truyền thống khoa học kỹ thuật của người Việt Nam xưa thì là một sự tô hồng không thật. Vả lại, đề cao ông nghè Vũ Hữu cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16 đã tính đủ số gạch xây tường không thiếu một viên, khi trên thế giới không chỉ châu Au (thời Copernic) mà ở Ả Rập (thời Al Kashi) đã có những công trình toán học cao, thì chỉ là một việc lố bịch.
Rồi người ta lại đề cao cả những truyền thống của làng xã cổ truyền, nhấn mạnh tính dân chủ của nó. Không hiểu vì sao các nhà sử học tự coi mình là Mác xít lại có thái độ “dân tuý” đến như thế. Ngày nay, khi cái cung cách, cái tâm lý “việc làng” đang khoác áo xã hội đi giữa chúng ta, các nhà sử học phải xem xét lại thái độ của mình trong việc đánh giá làng xã cổ truyền. Lịch sử Việt Nam anh hùng thật, vinh quang thật, trình bày nó lúc nào, chỗ nào cũng tốt đẹp cả, rực sáng cả thì quả là không thật. Nhà sử học không chỉ ngâm ngợi những thiên anh hùng ca mà không biết đến những khúc bi ca trong lịch sử.
Cũng thường thiên lệch khi chúng ta đánh giá các nhân vật lịch sử. Con người là cả một hệ thống những mối quan hệ phức tạp, bị quy định bởi các điều kiện xã hội tự nhiện, lịch sử. Thiếu một sự đánh giá xuất phát từ chủ nghĩa lịch sử dường như là căn bệnh chung của chúng ta. Một số người đã chỉ trích các nhân vật lịch sử vì họ không giống ta. Một số lại quá yêu các nhân vật đó, đến chỗ miêu tả tư duy và hành động của họ cứ y như là họ đã được học tập chủ nghĩa Mac- Lênin.
Chúng ta hãy nhớ lời Mac :” khoa học càng vô tư và không thiên vị thì càng phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của người công nhân”. Một nền sử học muốn tự biểu hiện là Macxít chân chính, chẳng những phải đặt cho mình nhiệm vụ khám phá chân lý của lịch sử, mà còn phải tỏ rõ khả năng đạt được sự thật khách quan. Cho đến nay nhiều học giả tư sản vẫn nghi ngờ tính khách quan của sử học. Ngay người bạn của chúng ta là Bertrand Russell cũng nói rằng:” sử học chỉ là dẫn ra những ngu xuẩn ngày hôm qua để giúp con người chịu đựng được những ngu xuẩn ngày hôm nay”. Chúng ta phải bác bỏ những luận bằng cách chứng minh rằng nền sử học của chúng ta có khả năng đạt được sự thật khách quan, chứ đừng tiếp tục giúp thêm chứng cứ cho những luận điểm đó
Từ khi chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử macxít ra đời, khám phá ra cơ chế hoạt động của sự thật phát triển xã hội, các nhà sử học được cung cấp một mô hình giải thích lịch sử có tính nhất thể – năng động, kết hợp cả hai mặt cấu trúc và biến đổi. Sử học vươn tới phát hiện quy luật và nhờ đó sử học không những nhận thức được quá khứ mà còn chuẩn bị cho những khả năng dự báo. Nhưng sử học muốn thực hiện các chức năng đó, khảo sát con đường đã qua và góp phần nhận thức con đường sắp tới, một điều kiện cơ bản là phải biết sự thật và nói lên sự thật.
Đã là con người, không phải là ông thánh, thì có lúc đúng lúc sai. Đó là chuyện thường tình. Nhưng thật là không công bằng khi chỉ vì khuyết điểm của thời kỳ này, ta sổ toẹt hết cả công lao của nhân vật đó, khi ở thời kỳ khác, đóng góp của người đó rõ ràng, không thể chối cãi. Nhà sử học Mác xít không thể chấp nhận một thái độ như vậy. Tại sao chúng ta không noi gương Lênin trong việc đánh giá nhân vật như Plê-kha-nốp?.
GS Hà Vãn Tấn
Tạp chí Tổ quốc, tháng giêng, 1988.

NỖI ÁM ẢNH CỦA QUÁ KHỨ

  Trần Quốc Vượng   Nước Việt Nam ta hiện là một quốc gia kém phát triển về mọi mặt, vừa lạc hậu, vừa lạc điệu với một thế giới nhìn chung...