CẢNG SÀI GÒN PHẢI TRỞ THÀNH CẢNG DU LỊCH QUỐC TẾ

Doanh nhân Sài Gòn 25/8/2023 

Nguyễn Thị Hậu

Như nhiều đô thị ở Nam bộ hình thành và phát triển bên những dòng sông thành “đô thị sông nước”, Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh trải qua hơn 300 năm đã định hình là một thành phố ven sông Sài Gòn. Trước nay sông Sài Gòn thường được biết qua khúc sông ở khu vực trung tâm làm nên một “Sài Gòn đẹp lắm”: hình ảnh bến Bạch Đằng tấp nập người xe, Tân Cảng, công xưởng Ba Son lâu đời, hệ thống thương cảng Sài Gòn lớn nhất nước. Rồi từ Cầu Mống vào Chợ Lớn là rạch Bến Nghé hai bên là nhà máy bến cảng phố chợ... Do đó, sông Sài Gòn – rạch Bến Nghé được coi là “mặt tiền” của đô thị Sài Gòn (xưa) vì ở đó hiện diện khá đầy đủ những đặc trưng kinh tế - văn hóa của thành phố.

Những con sông chảy qua thành phố được coi  là một lợi thế về cảnh quan tự nhiên, bên cạnh lợi thế về giao thông và môi trường. Quy hoạch bờ sông tốt sẽ góp phần nâng cao giá trị của cảnh quan nhân văn từ cảnh quan tự nhiên. Làm đẹp hơn cho cảnh quan này và tạo điều kiện cho mọi người được hưởng thụ giá trị văn hóa ở đôi bờ sông, đó là trách nhiệm của chính quyền. Lịch sử phát triển của Sài Gòn – TP.HCM đã gắn liền với sông Sài Gòn và đây là một ưu thế trời phú không phải thành phố nào cũng có được. Từ đầu năm 2022 TP. Hồ Chí Minh đã đẩy nhanh và hoàn thành việc chỉnh trang khu vực bến Bạch Đằng, mang lại diện mạo hiện đại cho nơi này, đồng thời mở ra hướng quy hoạch chỉnh trang toàn bộ “mặt tiền” sông Sài Gòn, sông Đồng Nai đoạn qua thành phố, nhằm thay đổi cả hai bên bờ sông không chỉ ở đoạn trung tâm mà xa hơn, về phía Đồng Nai, Bình Dương hay ra phía Nhà Bè, Cần Giờ.

Từ nhiều năm nay do sự phát triển thành phố và nhu cầu cải tạo môi trường nên nhiều cơ sở công nghiệp đã di dời ra khỏi nội thành, trong đó có khu vực thương cảng Sài Gòn rộng lớn, trải dài bên sông thuộc khu vực quận 4. Trong năm 2022 - 2023 TP Hồ Chí Minh đã có những ý tưởng, dự án phát triển đôi bờ sông Sài Gòn vì lợi ích cộng đồng. Tuy nhiên, dù phát triển đường sông hay đường bộ ven sông nhưng nếu không còn “cảng thị” thì thành phố sẽ mất đi một đặc trưng văn hóa quan trọng, bởi tính chất “cảng thịđã duy trì và phát triển sự cởi mở, năng động, đồng thời cũng mất đi tính chất “hướng biển” của sông Sài Gòn và thành phố từ khi khởi lập.

Vì vậy, bên cạnh những bến cảng kinh tế hay cảng trung chuyển Cần Giờ - Vũng Tàu thì khu vực Cảng Sài Gòn ở quận 4 cần phải trở thành cảng du lịch quốc tế của thành phố (bên cạnh cảng hàng không sân bay quốc tế Tân Sơn Nht). Cảng Sài Gòn với cơ sở hạ tầng sẵn có hoàn toàn phù hợp chuyển đổi công năng thành Cảng du lịch quốc tế: vừa đón được tàu trọng tải lớn, vị trí gần trung tâm thành phố nên thuận tiện cho các đoàn du khách di chuyển tham quan mà không gây sức ép lên giao thông nội đô, vừa có không gian rộng lớn kết hợp trên bờ và dưới sông để tổ chức những hoạt động văn hóa – nghệ thuật phục vụ du lịch, như chương trình nghệ thuật “Dòng sông kể chuyện” trong “Lễ hội sông nước lần thứ nhất của TP. Hồ Chí Minh” rất thành công vừa qua.

TP. Hồ Chí Minh là trung tâm du lịch lớn nhất phía Nam, mang đặc trưng “thành phố sông nước” tiêu biểu cho cả vùng Nam bộ. Vì vậy du lịch của thành phố cần khai thác tính chất thông thương và thông thoáng của những dòng sông và kênh rạch, hình thành hệ thống bus đường sông và các bến tàu kết hợp những trung tâm thương mại (theo mô hình truyền thống: bến là/và chợ). Đó là sự khôi phục “văn hóa sông nước” với tính chất “mặt tiền” của nhà của phố là sông, cùng với đó là những trung tâm du lịch lớn được xây dựng ngoài trung tâm thành phố nên không phá hủy vùng lõi của di sản đô thị, có hệ thống lưu trú, thương mại dịch vụ và văn hóa nghệ thuật, thân thiện, thuận tiện cho dịch vụ du lịch đường thủy.

Ngoài việc cải tạo và xây dựng thêm hạ tầng cơ sở chuyển đổi chức năng Cảng Sài Gòn thành Cảng Du lịch, quy hoạch quận 4 thành một “trung tâm dịch vụ du lịch” thì việc xây dựng những chiếc cầu lớn qua sông Sài Gòn (như dự án cầu Thủ Thiêm 3 và Thủ Thiêm 4) cũng phải phù hợp cho sự vận hành và phát triển Cảng du lịch ở quận 4: đặc biệt những cây cầu này cần có độ tĩnh không và những yếu tố kỹ thuật khác thích hợp cho tàu lớn ra vào thường xuyên. Có như vậy thì sông Sài Gòn mới thực sự “thông thương, thông thoáng”, khúc sông Sài Gòn trong nội thành và bến Bạch Đằng sẽ không bị biến thành “ao hồ” khép kín khi không còn tàu lớn từ biển ra vào. Đồng thời những chiếc cầu mới, hiện đại này sẽ trở thành “điểm nhấn” đẹp đẽ, độc đáo, khó quên khi chào đón và tiễn đưa du khách dến với thành phố Hồ Chí Minh. 

TP. Hồ Chí Minh, 14.8.2023




LỜI CẢM TẠ


Má chúng tôi là bà Nguyễn Thị Trang (bà quả phụ Nguyễn Ngọc Bạch) đã mất ngày 14.8.2023 (tức ngày 28.6 âm lịch). Hưởng đại thọ 99 tuổi.
Ngày hôm qua gia đình đã chu toàn mọi việc cho Má tôi về cõi Phật. Má đã được về bên Ba sau gần 40 năm xa cách, về với anh Hai, chị Hai…
Những ngày tang lễ, gia đình chúng tôi đã được đón nhận sự quan tâm và thăm viếng của lãnh đạo TP. HCM, Ban Tuyên giáo TPHCM, lãnh đạo quận Phú Nhuận và phường 10 quận PN, lãnh đạo nhiều Sở, ngành, Hội ở trung ương và TP. HCM, một số cơ quan báo chí tại TP. HCM, lãnh đạo các cơ quan nơi chúng tôi đã và đang làm việc… Đông đảo bà con họ hàng nội ngoại, các gia đình thông gia, các cô chú là bạn bè, đồng nghiệp của ba má chúng tôi, rất nhiều bạn bè gần xa, đồng nghiệp và học trò của chúng tôi, cùng bà con lối xóm… đã gửi vòng hoa, đến viếng, phúng điếu Má chúng tôi. Đồng thời chúng tôi còn nhận được hàng ngàn lời chia buồn gửi qua FB, viber, zalo, email, điện thoại… Tất cả những sự chia sẻ, lời động viên của mọi người đã giúp chúng tôi vơi bớt nỗi đau để lo việc tang gia cho chu toàn.
CHÚNG TÔI XIN CÚI ĐẦU CẢM TẠ VÀ TRI ÂN TÌNH CẢM CỦA TẤT CẢ MỌI NGƯỜI!
Trong những ngày tang gia bối rối, nếu gia đình có điều gì sơ xuất, chúng tôi xin được lượng thứ!
Gia đình chúng tôi xin trân trọng cảm ơn!






Tiến sĩ khảo cổ Nguyễn Thị Hậu: Nối liền cảm xúc giữa nhiều miền thương (báo Quảng Nam)

 TS.Nguyễn Thị Hậu hài hước cho rằng mình chọn nghề khảo cổ có lẽ vì sự “lãng mạn” của nó nhưng bền bỉ với nghề này bởi đã thành cái “nghiệp”. Trong giới khảo cổ lẫn bạn đọc quý mến luôn gọi chị là “Hậu khảo cổ”, cái nghề gắn cái tên thành ra thương hiệu của chị. Sống với nghề, đi và viết, đã cho nữ tiến sĩ một hành trình nối liền cảm xúc giữa nhiều miền thương.

Đam mê tìm hiểu văn hóa

TS.Nguyễn Thị Hậu quê gốc miền Tây. Nhà nội ở làng Mỹ Hiệp trên Cù Lao Giêng, huyện Chợ Mới, An Giang. Nhà ngoại ở bến đò Mỹ Hiệp qua làng Hòa An, huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp. Bên này là nội, bên kia là ngoại, cách một nhánh sông Tiền. Gia đình chị tập kết ra miền Bắc năm 1954.

Chị chào đời tại Hà Nội năm 1958. Năm 1975, đất nước thống nhất nối liền một dải, 17 tuổi chị về lại miền Nam và chọn Sài Gòn sinh sống, làm việc và gắn bó đến tận bây giờ. Dẫu sinh ra ở Hà Nội, nhưng cái chất phù sa thấm dạ và châu thổ quyện cuộn vào lòng, vẫn miên mải trong tâm khảm Nguyễn Thị Hậu.

Chín nhánh sông cứ vậy mà mang nhiều da diết trên nhiều trang viết của chị. Có lẽ vậy mà dù đi qua biết bao vùng lạ, biết bao miền xa, và giờ sống ở đô thị nắng ấm phương Nam, nhưng câu chữ của chị vẫn mang sự hồn hậu của người miền Tây.

Ngay từ khi thi vào đại học, Nguyễn Thị Hậu chọn Khoa Sử vì có ngành Khảo cổ học. Bởi với chị lúc đó, đây là một ngành có những người thầy dạy rất hay, hấp dẫn. Khảo cổ học cũng là ngành học kỹ thuật nhưng có nhiều kiến thức về văn hóa nên chị rất thích. Dù biết chắc đây là ngành học sẽ phải đi nhiều và rất vất vả. Nhưng với chị đam mê tìm hiểu văn hóa luôn là niềm đam mê bất tận.

Đến nhiều nơi, đi nhiều miền, chị vẫn thấy Việt Nam đa dạng yếu tố tự nhiên và tộc người, suốt tiến trình lịch sử luôn có sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa bằng nhiều phương cách khác nhau, với nhiều cộng đồng, quốc gia khác nhau, do đó để lại nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể độc đáo, mang bản sắc riêng.

Và chị chọn cách ghi lại thật đầy đặn cảm xúc chính mình trên hành trình rong ruổi đó qua những cuốn sách phát hành để ngỏ hầu mang đến cho độc giả những thương tưởng cũ càng.

Có lần tôi thắc mắc giữa bộn bề công việc, tần suất các chuyến đi, sao chị lại chọn văn chương để ghi chép cảm xúc. Kỳ thực viết văn đâu có nhanh, huống chi các bài viết của chị lại mượt mà dạt dào cảm xúc. Tốn kém thời gian và nói thật cũng tốn sức lắm chứ có phải nhẹ nhàng hơn công việc khảo cổ là bao.

Nữ tiến sĩ cười nhẹ tênh bảo: “Có cách nào “kể lại” các chuyến đi, những gặp gỡ... một cách đúng với tâm trạng, cảm xúc của mình khác văn chương ư? Cứ tự nhiên viết ra thế thôi, như để giải tỏa cảm xúc, để ghi nhận kẻo bỏ qua, quên mất những khoảnh khắc đẹp, đáng nhớ. À, hồi thi vào đại học điểm văn của tôi rất cao, nhà trường xếp vào học Khoa Văn nhưng tôi xin về học Sử theo nguyện vọng. Có lẽ vì vậy giờ phải “trả nợ” ngành văn”.

Chân thành và duyên dáng, Nguyễn Thị Hậu luôn khiến người đối diện thán phục bởi những kiến thức ngồn ngộn về văn hóa Việt, lẫn những điều cực kỳ hay ho đắt giá trên những vùng miền chị đã đi qua và trên hết vẫn là một tâm thế sẻ chia với tất thảy những ai cần tìm kiếm tư liệu. Nhiều bạn văn, bạn báo kháo nhau cứ gõ cửa vị nữ tiến sĩ này, khối chuyện hay nghe cả ngày không hết.

Một xứ Quảng ân tình

Trong bài viết “Những người bạn Quảng” của mình, Nguyễn Thị Hậu nhắc đến tính cách Quảng rằng: “Hình như người Quảng nào cũng có sẵn cả 3 cá tính: sự quyết liệt của một nhà báo, tính cần mẫn của một nhà nghiên cứu lại vừa có gì đó lãng mạn như một nhà thơ”.

Một tác phẩm mới nhất của tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu.
Một tác phẩm mới nhất của tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu.

Chị bắt “vị” Quảng vừa độc đáo lại vừa hài hước, bởi chính những năm tháng ruổi rong từ lúc học đến làm nghề, chị luôn có những người bạn Quảng chân thành cạnh bên. Từ khi còn lớp đại học, một lần về thực tập ở Khu đền tháp Mỹ Sơn, chị và bạn học đã được một người bạn chung lớp dẫn về cho ở nhờ một đêm. Đó là những năm vừa sau chiến tranh, đất nước còn khó khăn.

Nguyễn Thị Hậu kể lại câu chuyện từ năm 1979 mà như in hằn trong trí nhớ mình: “Đó là một ngôi nhà phố nhỏ bé, có cái gác lửng cũng nhỏ xíu, vậy mà gia đình bạn đã rộng lòng đón tiếp chúng tôi. Lần đầu tiên tôi được ăn mỳ Quảng là ở đây ngộ ghê, mỳ gì mà nước có chút xíu, lại ăn với bánh tráng?”.

Nhắc đến Quảng Nam, nữ tiến sĩ hồ hởi ngay, bởi với chị, Quảng Nam có vị trí địa lý và quan hệ liên vùng, xứ Quảng có văn hóa đa sắc thái như núi, trung du, đồng bằng, ven biển, biển và đảo.

Miền núi Quảng Nam phong phú tài nguyên rừng từ hương liệu đến khoáng sản, đồng bằng Quảng Nam là một trong hai đồng bằng lớn và màu mỡ ở miền Trung, cửa sông Thu Bồn có Đại Chiêm hải khẩu được các chúa Nguyễn phát triển thành cảng thị Fai Fo - Hội An, là “cánh cửa” mở ra thế giới bên ngoài của cả xứ Quảng và Đàng Trong.

Có thể nhận thấy từ vị thế địa - văn hóa, địa - lịch sử, xứ Quảng (Nam) là “vùng biên” chính trị - văn hóa của Việt - Chăm, chỉ trong mấy thế kỷ đã hội tụ những truyền thống vốn có của các tộc người và làm nảy sinh nhiều truyền thống mới. Sắc thái văn hóa Hội An cũng như xứ Quảng và toàn Nam Trung Bộ là kết quả giao thoa, đan xen, dung hòa giữa văn hóa Việt - Chăm.

Chị nói đến đấy thì tôi tin trong trái tim ấm nồng của mình, Nguyễn Thị Hậu luôn dành tình cảm đặc biệt cho đất Quảng và người Quảng. Càng nghe chị, càng đọc chị, tôi lại càng tin lời kháo nhau của các bạn văn, bạn báo về người nữ tiến sĩ luôn nhiệt tâm chia sẻ kiến thức lẫn tấm lòng với mọi người.

Chạm độc giả bằng trữ lượng yêu thương

Sống, làm nghề, đi và viết, Nguyễn Thị Hậu luôn tràn đầy trữ lượng của yêu thương. Những yêu thương đó chị ký thác vào câu chữ. Tập tạp bút đầy đặn với 250 trang và 36 bài viết mang tên “Thương những miền qua” vừa mới phát hành lại một lần nữa dẫn dắt bạn đọc, giới mộ điệu đi qua những vùng đất gần gũi lẫn xa lạ bằng mạch cảm xúc dạt dào.

Giọng văn rủ rỉ rù rì, câu chữ mộc mạc, hầu hết tạp bút trong tập sách đều nhẹ nhàng chuyển tải câu chuyện rất đỗi chân phương và đậm đà tấm tình. Tấm tình của một người đã đi qua dâu bể gieo neo cuộc đời, ngoái lại nhìn quãng đường xưa xa thì nghe cũ càng dậy lên niềm thương tưởng.

Độc giả hiểu thêm từng niềm thương đắng đót qua loạt tác phẩm như “Cây cầu tình yêu ở Sài Gòn”, “Bia con cọp” - một biểu tượng của Sài Gòn xưa, “Dòng sông mang tên thành phố”, “Hà Nội trong tôi”, “Di sản Hà Nội trong ngày hôm nay”, “Một dòng xanh tuyệt vời của Huế”, “Ấn Độ vùng đất quyến rũ và đầy sức sống”, “Notre-Dame de Paris nơi dừng chân của ký ức”, “Lâu đài Amboise và danh họa Leonardo da Vinci”…

Ở những miền thương đó, Nguyễn Thị Hậu luôn trắc ẩn cho những điều cơ hồ đã phôi pha, nhưng qua ngòi bút của chị lại vọng về một cách luyến nhớ. Như giữa nhà thờ Đức Bà Paris, ngắm khối kiến trúc uy nghiêm lẫy lừng, chị nhắc đến số phận của chàng gù nhân hậu Quasimodo, cô gái tài hoa xinh đẹp Esmeralda.

Hay khi có dịp đến với vùng đất sông Hằng linh thiêng để viếng đền Taj Mahal, chị kể lại mối tình bất tử của vua Shah Jahal dành cho người vợ thông tuệ đầy yêu quý của mình. Hoặc lúc bàn chân chạm đến lâu đài Amboise để tìm hiểu các tuyệt tác của danh họa Leonardo da Vinci, nữ tiến sĩ khảo cổ cũng kịp ghi lại vài dòng cảm xúc của chính mình để ngỏ hầu mang lại cho độc giả những hoài niệm về một tên tuổi bậc thầy của hội họa...

TS.Nguyễn Thị Hậu vẫn luôn để lại trong tâm trí người từng tiếp xúc với chị, tìm hiểu các công trình khảo cứu hay đọc chị một cảm giác thân thiện và an lành. Thể như trữ lượng yêu thương tích cực từ chị, lan tỏa đến người đối diện.

Chị vẫn sống, đi và viết bằng tấc lòng rất nhẹ tênh: “Thật tình tôi không có dự định gì lớn. Vẫn chỉ là những chuyến đi vài ngày đến nơi này nơi kia, trong hoặc ngoài nước... Và nếu còn cảm xúc thì sẽ viết, viết cho mình, viết cho bạn. May mắn được đăng báo hay in sách thì... có nhuận bút cà phê với bạn bè cho vui. Vậy thôi!”.

 TỐNG PHƯỚC BẢO


LÀNG NGHỀ SÀI GÒN MỘT THỦA VANG DANH

   (Người Đô Thị Xuân Giáp Thìn 2024) Nguyễn Thị Hậu Sài gòn là một đô thị từ khi khởi lập. Tính chất đô thị của Sài Gòn không chỉ ở chứ...