Hậu Khảo cổ
Đi và tìm trong đất... thấy người :)
Ký ức lũ lụt
Lịch sử Nam Bộ nhìn từ một gia đình (Nguyễn Thị Hậu giới thiệu)
Lưu niên ký sự là tên chữ mà tác giả gọi cuốn sổ Biên việc hằng năm của mình. Bắt đầu từ năm 1823 là năm sanh của ông nội mình, tác giả thuật lại theo ký ức của ông nội và ba về lịch sử dòng họ và về những điều mắt thấy tai nghe của lớp người trước. Đến năm 1926, khi được 43 tuổi, ông Nguyễn Trinh Tường bắt đầu biên chép theo sự từng trải của mình, ký sự dừng ở năm 1940.
Ông Tường là người mần ruộng ở Cù lao Giêng, việc hằng năm chỉ cày bừa gieo gặt chớ có gì đâu. Nhưng không phải vậy, tập biên chép này đặc biệt hấp dẫn và đặc biệt độc đáo ở nhiều chỗ. Đây là một tập tư liệu sử do một nông dân viết, rất khó đụng hàng, bởi thông tin về nghề nông cùng với xã hội nông nghiệp của một thời được nói cụ thể, chi tiết, toàn là những chuyện mà sử gia văn phòng với sử quan cung đình bó tay.
Một miền Tây Nam Kỳ sinh hoạt đời thường, ngoài nghề mần ruộng, các vụ hương chức hội tề, đấu đá kèo xanh kèo vàng, buôn bán, đi lại, ăn chơi, cờ bạc các kiểu, như hiện ra trước mắt ta qua va chạm trực tiếp của tác giả. Đọc tập ký sự như gặp một cuộc đời bình dị mà trải nghiệm đủ thứ, như bản hợp âm của những ông già mang tánh cách Nam Kỳ đã sắp thành truyền thuyết rồi.
Phạm Hoàng Quân
Khoảng tháng 10-1975, lần đầu tiên gia đình tôi tập hợp khá đông đủ tại Sài Gòn, đó là ngày giỗ ông nội của tôi. Trong dịp đó, chú Tám tôi đã tặng lại mỗi nhà một bộ tư liệu ông nội để lại, gồm cuốn gia phả Lịch sử gia đình và tập ghi chép Lưu niên ký sự.
Hai tư liệu này chú tôi cất giữ từ những năm 1950, sau đó sao lưu làm nhiều bản đề phòng thất lạc do chiến tranh, và cũng để gửi lại các gia đình "để biết gốc gác bà con" như tâm nguyện của ông nội tôi lúc sinh thời. Đây là kỷ vật của gia đình, ba tôi đã giao cho tôi (là đời thứ 7) trách nhiệm lưu giữ hai tư liệu này.
Ông nội tôi tên Nguyễn Trinh Tường (tự Nguyễn Văn Bảy), sinh năm 1881 tại làng Mỹ Chánh trên Cù lao Giêng, nay là xã Mỹ Hiệp, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, trong một gia đình nông dân. Tuy gia đình nghèo nhưng nhiều đời có truyền thống chăm lo việc chung của làng xã, được làng xã tín nhiệm, bà con quý mến. Ông tôi tham gia vài chức vụ nhỏ của làng, hành xử mọi việc với tấm lòng ngay thẳng, cương trực.
Ông tôi có hai người vợ: bà thứ nhất là Nguyễn Thị Sung, thân mẫu của bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng (con trai thứ ba), Anh hùng lao động. Nguyên phó chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nguyên bộ trưởng Bộ Y tế nước VNDCCH.
Bà bị bệnh mất khi ông Hưởng còn nhỏ tuổi. Ông nội cưới người vợ thứ hai là bà Nguyễn Thị Lượm, sinh thêm ba người con trai: ông Nguyễn Văn Bá (thứ tư), ông Nguyễn Ngọc Bạch (thứ bảy) và ông Nguyễn Thừa Nghiệp (thứ tám). Ông bà nội tôi cũng có mấy người con gái nhưng đều mất khi còn nhỏ.
Năm 1947, ông nội tôi bị giặc bắn chết tại Cù lao Giêng, sau khi chúng tra khảo bắt ông phải gọi hai người con đi kháng chiến (là bác Ba và ba tôi) về đầu thú nhưng không được. Sau đó bà nội tôi theo gia đình lên sinh sống ở Sài Gòn và mất năm 1963. Sau năm 1954, bác Ba và ba tôi tập kết ra Bắc, còn bác Tư và chú Tám tôi ở lại hoạt động trong phong trào đô thị.
Công trình gia phả Lịch sử gia đình là bản đánh máy một mặt có 64 tờ (cả bìa) trên khổ giấy A4 được nhân ra 100 bản vào ngày 3-9-1969. Trang đầu của tập tài liệu có "Bức thơ ngỏ" nhân một cuộc họp gia đình tại Sài Gòn ngày 25-5-1969: "Vì bản này chỉ có một bản chánh do tác giả dày công sưu tầm và viết ra, nên nhân một ngày giỗ ông bà, chúng tôi đã bàn với nhau và có đồng ý là nên sao ra nhiều bản để được nhiều người trong gia tộc giữ, hầu tránh sự thất lạc một tài liệu di tích chung. Việc làm đó cũng phù hạp với sở nguyện của tác giả đã được tỏ bày trong tập Lịch sử gia đình. Chúng tôi chỉ làm một công việc nhỏ là sao y bản chính, sửa lại ít chữ cho đúng chính tả, còn sự ghi chép các sự kiện (có thể đúng hay sai) cùng là sự nhận xét hay phê phán (có thể khách quan hay chủ quan) đều là của tác giả, mà chúng tôi xin trân trọng nguyên văn".
Tập ghi chép Lưu niên ký sự là bản photo trên khổ A4 gồm 94 trang (không kể bìa). Trang đầu ghi rõ Lưu niên ký sự tập I từ 1890 đến 14.11.1935. Chữ viết tay chủ yếu là chữ quốc ngữ có xen chữ Hán, chữ Pháp. Được photo làm bốn bản cho bốn người con trai. Bản gốc do gia đình chú tôi là ông Nguyễn Thừa Nghiệp lưu giữ. Tuy nhiên, trải qua thời gian dài gia đình di chuyển nhiều nơi, việc bảo quản khó khăn bên hai bản tài liệu viết tay không còn nguyên vẹn.
Tác giả Nguyễn Trinh Tường biên chép tài liệu này gồm hai phần: Kính lục sự tích và Gia phả. Ông đã tìm kiếm và biết được từ đời thứ nhất là ông thỉ tổ Nguyễn Văn Ngải (và bà Cao Thị Ly) đến đời ông là đời thứ 5, các con ông là đời thứ 6. Trong "Lời nói đầu" của tác giả, tập Lịch sử gia đình nêu rõ mục đích như sau:
"Nhiều nhà nhóm thành họ, nhiều họ nhóm thành nước. Mà muốn hiểu biết việc đời dĩ vãng, thì nước phải có quốc sử, họ phải có thế phổ, nhà phải có gia phổ, đặng biên chép những việc cổ vãng và kiêm lai. Biên chép đặng biết mà chi? Có hai lẽ:
1/ Nước cho biết loài dân mà ái quần ái chủng, họ và nhà cho biết tông chi liên lạc mà thương yêu giòng họ, cũng như cây có nhánh phải biết gốc, nước có giòng chảy phải biết có nguồn. Một mai mà rễ của gốc mục thì nhánh phải héo, nguồn ruỗi cạn thì giòng chảy phải khô.
2/ Nước biết những lịch triều vương đế, họ biết những thế hệ tổ tiên, lớp trước làm bởi thế nào, mà ra đời phải thạnh suy, tồn vong, bĩ thới. Biết mà chi? Nước phải biết lớp trước để làm gương đặng sửa sang chánh trị cho bền vững giang san, họ và nhà cho biết lớp trước làm gương mà cư xửa cho tấn hóa gia đình. Nếu người đáng gương tốt thì chúng ta học đòi bắt chước, nếu người cho là gương xấu thì ta giữ lòng chừa cải. Nếu không quốc sử không thế phổ thì sao? Nếu nước không quốc sử sẽ lần lượt đến tiệt chủng, nhà không thế phổ thì thân thích phải chia lìa. Rồi ra, loài dân thì giất lẫn nhau, thân thích thì kiện cáo nhau không biết nguồn biết gốc. Bởi cớ, nên nhà phải có thế phổ, cho biết mà thương yêu nhau, giữ gìn nhau, dạy bảo nhau, đời đời cho ra dòng hiếu tử, rồi hiệp lại thành nước thì ra giúp nước mới có mặt trung thần, vậy có đáng lập gia phổ chăng? Tôi xin trả lời đáng lắm".
Ông cũng nêu rõ quan niệm ghi chép gia phả: "Mà sự lập quốc sử hay là thế phổ là chỉ muốn trải trên mặt tờ giấy những sự thiệt, mà làm một bức ảnh cho đời sau soi chung. Nên chi dòng Thái sử gặp vua hôn dầu chém giết cũng cứ cầm viết biên ngay, như là việc tùy Vương đế thí phụ tự lập, Kiệt, Trụ, U, Lệ gương xấu Võ, Thang, Văn, Võ gương tốt, cũng phô lên.
Nay tôi muốn học đòi, xin cáo lỗi cùng người trên kẻ dưới dẫu ai có hẹp lòng buộc lỗi thì tôi cam chịu tội.
Tôi nghĩ một cái thân ta có tứ chi mà không trọn, huống chi họ ta cả trăm ngàn mà không người tốt kẻ xấu, nếu đồng nhau thì tạo hóa bất công, vì tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác, thiện ác chi báo như ảnh tùy hình, cái bánh xe luôn hồi phải vậy".
Về phương pháp ghi ghép, ông nêu "Từng thứ nhất từ thỉ tổ đến ba đời làm căn bản. Từng thứ hai đời thứ 3 làm gốc sanh ra đời thứ 4, thứ 5 và thứ 6. Từng này chia ra 9 cái tông chi cho dễ xem. Rồi lần lượt kể sự tích của mỗi đời, mỗi người, kể tới đời thứ 5 (là đời của tác giả). Sự lập tông chi tới 5 đời phải dứt ra một đoạn. Tôi lấy làm ao ước đời sau mỗi chi (trong 9 chi nầy) cứ gốc ông Thỉ tổ biên đại khái theo nhánh của mình mà đi roi xuống đời đời đừng cho dứt, thì lấy làm thỏa cái sở nguyện của tôi vô cùng".
Phần Kính lục sự tích ông bà các đời, ông ghi chép ngắn gọn các nội dung: tên ông, tên bà (có mấy vợ cũng ghi hết). Nguồn gốc từ đâu, đến nơi nào sinh sống, khái quát gia cảnh, có mấy người con, tên (không biết cũng ghi rõ là không biết), số con cũng như tên họ con trai và con gái. Những sự kiện chính. Mất năm nào, mộ ở đâu, ngày giỗ... Tuy ngắn gọn nhưng đầy đủ và đặc biệt chân dung cá nhân hiện lên khá rõ ràng.
Cũng có một số người không có ghi chép gì. Theo lời kể của ba má tôi, trong những năm trước 1945, ông nội tôi đạp xe (loại bánh đặc) đi khắp lục tỉnh, thậm chí đi tàu sang tận Nam Vang (Phnom Penh) để tìm bà con... Tuy nhiên có nhiều chuyến đi không tìm được ai hoặc không tìm ra tung tích một người nào đó.
Theo ghi chép của ông, thì "Thỉ tổ sanh vào thế kỷ 18 ở vào Quy Nhơn hay Nghệ An chưa rõ, vì nghe lời truyền thất thố chưa chắc được". Điều này khá phù hợp với lịch sử chung của vùng đất Nam Bộ "300 năm" dân cư chủ yếu đến từ Ngũ Quảng, có gốc gác từ vùng Thanh - Nghệ.
Phần Gia phả được ông ghi chép khoa học, rõ ràng, dễ hiễu, dễ tra cứu. Gồm 6 đời (tác giả là đời thứ 5, các con là đời thứ 6) sắp xếp theo chữ cái từ A đến F. Mỗi người thêm số phía sau. Tổng số tác giả ghi chép được: Đời thứ Nhất: A = 1 người; Đời thứ Hai: B = 6 người; Đời thứ Ba: C = 14 người; Đời thứ Tư: D = 37 người; Đời thứ Năm: E = 121 người; Đời thứ Sáu: F = 353 người.
Theo đó có thể hình dung chính xác, ví dụ đời thứ Nhất: A1 = ông Nguyễn Văn Ngải (bà Cao Thị Lý), có 6 người con từ B1 đến B6 và 14 người cháu từ C1 đến C14. Đời thứ Hai: B1: Nguyễn Văn Nhiên (Thị Nhàng ngươn phối) có 8 người con từ C1 đến C8 và có 33 người cháu từ D1 đến D33. Đời thứ Hai B2... B6: tương tự vậy.
Như vậy mỗi đời đều có thể nhận biết từ ông bà đến con và cháu, cho thấy sự liên hệ lịch đại và huyết thống chặt chẽ. Giữa những người cùng một đời (B, C hay D...) cũng dễ dàng tìm thấy quan hệ trên (đời ông bà) hay dưới (con, cháu) của mình. Hoặc từ thế hệ sau có thể tìm ra mối liên hệ huyết thống của thế hệ trước (tìm bà con nguồn gốc)...
Đặc biệt trong gia phả, tác giả ghi đầy đủ trong mỗi gia đình có các con gái lấy chồng ở đâu, làm gì, mất năm nào. Tương tự với các con dâu cũng vậy. Đây là điều hiếm có trong gia phả của nhiều dòng họ gia đình thời bấy giờ. Tập hợp những hoàn cảnh, gia đình này, ta có thể hình dung bối cảnh xã hội, lịch sử một giai đoạn khá dài.
Ở góc độ "văn bản học", tôi tin rằng đây là một công trình có giá trị về văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết... phản ánh xã hội những năm cuối thế kỷ 19 đến khoảng 1940 của vùng đất Cù lao Giêng nói riêng và cả Nam Bộ nói chung. Trong những năm gần đây, nhiều gia đình dòng họ đã quan tâm đến việc tìm hiểu và ghi chép gia phả. Đây cũng là một xu hướng mới trong nghiên cứu lịch sử, khi nguồn sử liệu được các nhà sử học quan tâm đến từ tài liệu của các gia đình, dòng họ. Đồng thời trong xã hội việc thu thập và nghiên cứu "sử kể" (Oral history) cũng phổ biến hơn. Tất cả nhằm mang lại cho lịch sử cái nhìn toàn diện, phong phú, đa dạng và khách quan.
Gia đình chúng tôi mong sớm có điều kiện để xuất bản những tư liệu quý này, góp thêm tài liệu nghiên cứu con người - dòng họ - lịch sử - văn hóa Nam Bộ.
[Đọc lược trích Lưu niên ký sự tại đây]
Tập Lưu niên ký sự ông Nguyễn Trinh Tường ghi chép về cuộc đời mình từ thơ ấu (từ 1890) đến cuối năm 1935. Có thể coi là một cuốn hồi ký chân thực về gia đình, cá nhân và một số sự kiện xã hội tác động đến hoàn cảnh gia đình.
Qua Lưu niên ký sự hiện ra chân dung của một con người rất thật thà, siêng làm lụng, thương yêu vợ con rất mực và cũng rất người, nghĩa là cũng có những lúc sa ngã, yếu lòng. Không tự tô vẽ, làm đẹp chân dung mình, ông không ngại nói đến những thói hư tật xấu của ông bà mình, không ngại nói về những vấp ngã của đời mình, mục đích trước là để nhắc nhở mình, sau là để răn dạy con cháu. Gọi là "lưu niên ký sự" vì đây không phải là nhật ký ghi lại hằng ngày mà ông ghi lại hằng năm, nhưng vẫn rất cụ thể.
Không chỉ là những ghi chép về một cuộc đời riêng, Lưu niên ký sự còn cung cấp cho chúng ta nhiều tư liệu quý, rất cụ thể về lịch sử, xã hội, phong tục tập quán, văn học dân gian… của Nam Bộ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, từ những biến cố lịch sử trong thời kỳ đó đến cách ăn mặc, tục cưới hỏi, các điệu hò…
Về văn phong, mặc dù được viết cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 nhưng Lưu niên ký sự khá hiện đại, ngắn gọn, chịu ảnh hưởng của ngữ pháp phương Tây khá rõ, hầu như không chịu ảnh hưởng của văn chương biền ngẫu thời đó. Ông dùng khá nhiều phương ngữ, có từ nay không còn dùng nữa, nhưng đặt trong văn cảnh vẫn có thể dễ dàng hiểu được.
Đọc Lưu niên ký sự thấy trong đó có một tấm lòng của tác giả đối với quê hương bản quán. Chưa làm được những việc lớn, ông đã cống hiến cho xã hội bằng những việc cụ thể, từ việc xây trường học để học sinh có chỗ học hành gần nhà đến làm cầu, sửa đường cho nhân dân đi lại dễ dàng. Vì vậy chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy cụ sinh ra những người con biết hy sinh cuộc sống thành đạt, phong lưu của riêng mình để cống hiến khi đất nước lâm nguy.
PGS.TS Võ Văn Nhơn (Đại học KHXHNV TPHCM)
LƯU GIỮ KÝ ỨC NHỮNG NGÀY ĐẦU TẬP KẾT
VỀ PHƯƠNG NAM LẮNG NGHE…
Thời mở đất
Cuốn
gia phả gia đình tôi mở đầu bằng câu “con chim có tổ, con người có tông…”. Theo
tinh thần ấy, hồi những năm 1930, từ một làng nhỏ trên Cù lao Giêng (Chợ Mới –
An Giang), ông nội tôi đã đi nhiều nơi tìm bà con dòng họ và lần về cội nguồn quê quán. Gia phả được ông ghi chép đến ông sơ đời thứ
nhứt là “ở
Quảng Ngãi hay Bình Định, mà gốc gác chắc cũng từ vùng Thanh Nghệ, tránh giặc
mùa mà lưu lạc vô nơi này…”. Theo
cuốn gia phả này thì đời ông nội tôi là thứ 5 và đến tôi là đời thứ 7.
Gia
phả nhiều gia đình, dòng họ ở Nam bộ cũng ghi nhận quê hương là miền Trung từ nhiều đời trước…
Lịch sử ghi nhận những đợt chuyển cư từ vùng Ngũ Quảng vào đất Đồng Nai - Gia Định
diễn ra không ồ ạt nhưng tương đối đều đặn và liên tục. Những đoàn lưu dân tự
phát gồm người cùng quê hương bản quán, cùng dòng họ, theo quy luật “người đi
trước rước người đi sau”, đến những đợt di dân quy mô lớn do triều Nguyễn tổ chức,
“những người dân có vật lực ở xứ Quảng Nam, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn mộ
vào Nam khai phá” như Lê Quý Đôn ghi chép trong Phủ biên tạp lục... Nương theo
bờ biển bằng những chiếc ghe bầu lưu dân vào miền đất mới theo hai con đường
chính: từ cửa Cần Giờ ngược dòng Đồng Nai vào vùng Gia Định. Từ đó có thể đi theo sông rạch về miền Tây mà nơi dừng
chân đầu tiên là khu vực Long An ngày nay.
Một
con đường khác là đi vào các cửa sông Tiền thuộc vùng Mỹ Tho, Bến Tre rồi dừng chân trên
những giồng, gò còn hoang sơ nhưng rộng rãi bằng phẳng, gian nan khai khẩn trồng
trọt, đánh bắt cá tôm... bắt đầu cuộc sống trên “vùng đất mới”. Vài đời sau vì kế sinh nhai, vì chiến
tranh hay những lý do khác, con
cháu họ
di chuyển và phân tán đi nhiều nơi,
khai phá vùng đồng bằng rộng lớn.
Chính vì vậy mà ở Nam bộ có rất nhiều di tích phản ánh thời
“mở đất”: đình làng, đền, miếu, lăng mộ... thờ cúng bái vọng những nhân vật lịch
sử, mà phần lớn gốc gác đều từ vùng Ngũ Quảng.
Lưu danh sử sách
An
Giang quê tôi là nơi có nhiều di tích của những công thần nhà Nguyễn quê ở miền
Trung, nổi bật là hai danh thần Nguyễn Hữu Cảnh và Nguyễn Văn Thoại.
Lễ
Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh là người có công lớn trong việc khai hoang, lập làng,
xác định chủ quyền, bình định an dân… trên vùng đất Gia Định xưa nên cư dân Nam
Bộ lập nhiều đình, miếu, kính cẩn tôn thờ ông là “Thượng đẳng phúc thần”. Tại
An Giang, dọc bờ sông Tiền ngày trước, nơi mà thuyền ông từng đi ngang hoặc ghé
qua, cư dân xây dựng nhiều đình, dinh để ghi nhớ công trạng của ông. Ở huyện Chợ
Mới, nơi ông từng dừng chân năm 1700 được gọi là cù lao Ông Chưởng. Con rạch nối
sông Tiền với sông Hậu được gọi là rạch Ông Chưởng (sông Ông Chưởng). Tại những
nơi ông đến, người dân lập dinh, đình thờ để tưởng nhớ công ơn. Ở cù lao Ông
Chưởng có 2 dinh quan trọng: Dinh Ông Long Kiến và Dinh Ông Kiến An. Tai đây lễ
kỳ yên hàng năm được xem là ngày lễ lớn trong năm.
Cù
lao Ông Chưởng từ lâu đã gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của huyện
Chợ Mới. Đây
là một trong những vùng đất được khai phá đầu tiên trong tỉnh An Giang, mở ra
cơ hội cho lưu dân người Việt khai phá, định cư, lập làng, tiến tới xác lập chủ
quyền trên thực tế ở vùng đất này.
Cuộc
đời binh nghiệp của Thoại Ngọc Hầu (Nguyễn
Văn Thoại)
trải qua chiến trận và
gian khổ giai đoạn
“Gia Long tẩu quốc”… Sau khi nhà Nguyễn thống nhất đất nước, ông nhậm chức trấn
thủ trấn Vĩnh Thanh (1817).Tại
đây,
ông đã thực hiện
việc khẩn hoang lập ấp, đào kinh đắp đường, phát triển và bảo vệ vùng đất mới.
Năm
1818 ông vâng lệnh vua cho đào Kênh Thoại Hà nối rạch Đông Xuyên (Long Xuyên) với
ngọn Giá Khê (Rạch Giá). Vua Gia Long đã cho phép lấy tên ông để đặt cho tên
núi (Thoại Sơn) và tên kênh (Thoại Hà).
Năm
1819 Thoại Ngọc Hầu khởi công đào kênh Vĩnh Tế, sau 5 năm con kênh quan trọng
này hoàn thành vào năm 1824. Con kênh nối liền Châu Đốc – Hà Tiên có ý nghĩa quan
trọng trong giao thông vận tải và an ninh quốc phòng. Đặc biệt có tác động lớn
đến phát triển nông nghiệp vì kênh đưa nước ngọt sông Hậu vào rửa phèn ở vùng đất
mặn, tạo điều kiện cho dân chúng đến khai hoang lập ấp, xây dựng xóm làng. Từ
đây lại có thêm nhiều gia đình dòng họ từ miền Trung tiếp tục truyền thống mở đất
đến định cư ở “vùng đất mới”.
Năm
1823, ông cho lập 5 làng trên bờ kênh Vĩnh Tế. Năm 1825, ông cho đắp con đường từ Châu Đốc
lên Lò Gò (tức thị trấn Angkor Borei thuộc Campuchia ngày nay) – Sóc Vinh nối các làng với nhau
rất tiện lợi trong việc đi lại của
nhân dân. Năm 1826 ông cho đắp lộ Núi Sam–Châu Đốc, dài 5 km. Làm xong, ông cho
khắc bia "Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương" dựng tại núi Sam để kỷ niệm. Năm 1828 ông dựng
bia Vĩnh Tế sơn, nội dung tế cô hồn những dân binh, đồng thời ông cho thu nhặt và cải táng hài cốt của những người đã mất trong khi đào kênh
Vĩnh Tế...
Hiện
nay khu mộ ông Thoại Ngọc Hầu và hai người vợ của ông tại chân núi Sam là Di tích lịch sử văn hoá Quốc gia. Nơi
đây còn là một vùng văn hoá tâm linh quan trọng của cả Nam bộ, ghi dấu ấn giai
đoạn xây dựng và củng cố vùng
đất biên cương Tây Nam của tổ quốc.
Văn hóa lưu truyền từ Ngũ Quảng
Nhìn
lại lịch sử khẩn hoang mở đất của ông cha ta, việc di dân trên vùng đất mới đã trải
qua nhiều vô vàn
khó khăn thách thức. Thời Chúa Nguyễn di dân tự do thường xuyên, “dân đi trước chính quyền đi sau”.
Qua triều Nguyễn các đợt di dân ngày càng lớn hơn, được nhà nước tổ chức và khuyến khích nên có
hiệu quả rõ ràng và nhanh chóng. Trong
nửa đầu
thế kỷ 19,
nhà Nguyễn đã tổ chức bộ máy hành chính đáp ứng kịp thời việc mở rộng lãnh thổ, tổ chức quân đội bảo
toàn những thành quả đạt đươc, ổn định cuộc sống của dân ở những vùng đất mới… Trong
quá trình này có vai trò quan
trọng của lưu dân Ngũ Quảng,
cùng với người Hoa và các cư dân bản địa, trong việc thực thi công cuộc khai khẩn và phát triển vùng đất mới.
Đi vào miền Nam với công
cụ, vũ khí và kinh nghiệm lao động,
lưu dân còn mang theo nền văn
hóa phong phú.
Đờn ca tài tử Nam bộ là
một trong những thành tựu có
được nhờ kế thừa và phát triển vốn văn hoá lưu truyền từ Ngũ Quảng. Kế thừa từ nhạc lễ, hát bội và một số sinh hoạt âm nhạc
khác, đờn ca tài tử mang tính ngẫu hứng sáng tạo, lời ca và nhạc điệu phản ánh
nhu cầu của con người ở một không gian văn hóa xã hội mới. Người Nam Bộ luôn
coi đờn ca tài tử là một phần quan trọng của đời sống tinh thần, không thể thiếu
trong các dịp lễ tết, giỗ chạp, cưới hỏi, hội họp...
Về phương Nam nghe đờn ca tài tử ta được đắm mình trong sự
hoài niệm về cội nguồn lắng đọng trong từng bài bản, từng điệu hò giọng ca giản dị chân thành... Và dù đã trải qua
hàng trăm năm với những biến thiên lịch sử, vẫn còn đó những đền miếu thờ công
thần danh tướng có công mở mang đồng bằng sông Cửu Long, những ngôi đình thờ
các vị “tiên hiền hậu hiền” góp sức xây dựng từng làng xóm.
Từ hơn 300 năm trước đến nay bao lớp người từ miền Trung đã ra đi. Đi một ngày đàng... Những “sàng khôn” của thế hệ trước luôn được thế hệ sau tiếp nhận, tích lũy, bồi đắp... góp phần xây dựng đất phương Nam và nhiều vùng miền khác.
Nguyễn Thị Hậu
https://baoquangnam.vn/ve-phuong-nam-lang-nghe-3139072.html
Ký ức lũ lụt
Hồi gia đình tôi mới tập kết ra miền Bắc, ở Hà Nội nhà tôi ở khu tập thể bờ sông phía ngoài đê. Dãy nhà cấp 4 vách tre đan trát vữa chia làm...
-
Một người bạn fb bất ngờ ra đi. Post bài thơ rất hay của bạn. Tôi biết Cao Hải Hà qua mạng Yahoo blog và sau là FB. Vài lần gặp Hà ở chỗ ...
-
Người Việt có một số thành ngữ và sự tích liên quan đến cá trê, như truyện Trê Cóc chẳng hạn. Câu chuyện không chỉ là việc Trê tranh giàn...
-
Xem lại phim này, suy nghĩ khác hẳn ngày trước. Trước, cảm động vì mối tình của cha Ralph và Mecghi, cho rằng đàn bà yêu thì phải hết l...