DI SẢN CỦA CỘNG ĐỒNG


Vì đặc thù nghề nghiệp tôi có dịp đi đến một số “thành phố di sản” ở châu Âu. Tãi đây cảnh quan đô thị và những công trình kiến trúc thời trung cổ còn được bảo tồn rất tốt, trở thành “sản phẩm văn hóa” chủ yếu, cùng với dịch vụ du lịch tạo nên ngành kinh tế chính của những thành phố này. Đồng thời hệ thống bảo tàng theo nhiều chủ đề cũng tạo nên sự khác biệt, trong đó Bảo tàng lịch sử của các thành phố luôn giữ vai trò chính yếu.

Tại các bảo tàng này việc trưng bày cổ vật, bảo vật quốc gia tại các bảo tàng trên thế giới là khá phổ biến. Ngoài di sản văn hóa của mình, các bảo tàng nổi tiếng còn lưu giữ và trưng bày những di sản của các nền văn hóa khác, do những hoàn cảnh lịch sử khác nhau đã được nước khác lưu giữ. Ví dụ bức tranh Mona Lisa của Leona Leonardo da Vinci vẽ trong thời kì Phục Hưng ở nước Ý. Tác phẩm thuộc sở hữu của Chính phủ Pháp và hiện được trưng bày tại bảo tàng Louvre ở Paris, Pháp. Mỗi ngày có  hàng ngàn lượt du khách xếp hàng chiêm ngưỡng bức tranh nổi tiếng này. Tại bảo tàng quốc gia Anh có nhiều cổ vật của nền văn minh Ai Cập, Lưỡng Hà, và nhiều nền văn hóa của các thời kỳ lịch sử... Việc trưng bày một cách trân trọng và khách quan, khoa học trong giới thiệu nguồn gốc, ý nghĩa đã làm tăng thêm giá trị của các di sản, phần nào góp phần làm tăng cường sự hiểu biết giữa các cộng đồng.

Nhiều năm trước ở nhiều bảo tàng địa phương ở nước ta, hiện vật quý hiếm chưa được trưng bày vì cơ sở vật chất của bảo tàng còn đơn sơ, điều kiện bảo vệ chưa an toàn, phương tiện trưng bày không đáp ứng yêu cầu mỹ thuật và nội dung của hiện vật. Vì vậy, hiện vật có giá trị cao thường đến với công chúng qua trưng bày bằng hình ảnh, bản vẽ, nhất là những hiện vật bằng vàng và đá quý. Tuy nhiên, nhiều hiện vật trong số đó đã được đưa đi nước ngoài triển lãm, trưng bày, với số tiền bảo hiểm lớn và điều kiện đóng gói vận chuyển bảo quản rất tốt. Tại các bảo tàng nước ngoài, hiện vật được trưng bày với điều kiện vật chất, kỹ thuật rất tốt, mang lại cho công chúng một cảm nhận toàn diện về giá trị lịch sử văn hoá của hiện vật.

Những người làm công tác bảo tàng như chúng tôi đều thấy băn khoăn trước thực trạng này: Vì sao dân ta chưa được chiêm ngưỡng những cổ vật quý giá của Việt Nam? Làm sao cho người dân trong nước được thụ hưởng đầy đủ giá trị văn hoá là di sản cho ông để lại? Từ những trăn trở đó, dưới sự chỉ đạo của ngành văn hoá và sự hỗ trợ tạo điều kiện của chính quyền địa phương, đến nay tại nhiều bảo tàng trong nước các cổ vật, bảo vật quốc gia đã lần lượt được đưa ra trưng bày giới thiệu trực tiếp cho công chúng trong nước và du khách.

Những năm gần đây, việc khai thác và sử dụng di sản văn hoá cũng có tình trạng tương tự. Trong các quy hoạch kinh tế - xã hội địa phương, quy hoạch ngành văn hoá, ngành du lịch, di sản văn hoá (vật thể, phi vật thể) được quan tâm đầu tiên là “tài nguyên du lịch”, định hướng bảo tồn và phát triển nhằm phục vụ du lịch… Điều này không sai, tuy nhiên chưa đúng với bản chất của di sản và thực chất của bảo tồn di sản.

 Luật Di sản văn hoá Việt Nam ghi rõ: Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Chính vì vậy, di sản văn hoá cần phải và trước hết là bản sắc của một cộng đồng, cần được bảo tồn và phát triển phục vụ đời sống, nhu cầu nâng cao tri thức, thụ hưởng văn hoá, giáo dục… của cộng đồng đã sáng tạo, bảo tồn và phát triển di sản văn hoá.

Hiện nay, việc tích hợp kinh tế di sản và kinh tế du lịch vào kinh tế chung của địa phương là tất yếu. Tuy nhiên đây là hai ngành kinh tế đặc thù, nếu nhấn mạnh yếu tố “kinh tế” và mục tiêu là “lợi nhuận” là chính thì yếu tố văn hoá sẽ biến dạng, lệnh lạc… Mà lẽ ra, yếu tố bảo tồn bản sắc văn hoá, bản sắc cộng đồng địa phương cần phải là mục tiêu chính. Một trong những giải pháp để cân bằng “kinh tế và văn hoá” trong phát triển du lịch chính là tăng cường vai trò của cộng đồng chủ thể của di sản và cộng đồng du khách nội địa. 

Di sản phản ánh diện mạo văn hoá cộng đồng, lịch sử một vùng đất, vì vậy cộng đồng địa phương là người thấu hiểu về di sản, họ bảo tồn di sản trước hết vì đó là lịch sử gia đình, dòng họ, là lối sống nếp sống của chính họ. Họ - bằng nhiều cách khác nhau - chuyển tải thông điệp về di sản đến cho du khách một cách chân thực, sinh động và đầy cảm xúc. Và chắc chắn du khách trong nước cũng là đối tượng tiếp nhận những thông điệp và cảm xúc ấy trọn vẹn, bởi sự đồng cảm của “người trong một nước”.

Cần nhìn nhận những hình thức du lịch mới như du lịch cộng đồng, du lịch văn hoá… đã mang lại lợi ích nhiều mặt cho cộng đồng địa phương: có điều kiện giới thiệu di sản văn hoá độc đáo, kinh tế phát triển, từ đó lại có điều kiện bảo tồn cả hai loại hình vật thể và phi vật thể của di sản. “Sống cùng di sản, vì di sản, nhờ di sản” nên lòng tự hào về di sản văn hoá sẽ được “di truyền” đến nhiều thế hệ sau, đó cũng là cách thức bảo tồn di sản bền vững. Khu di tích Hoa Lư của tỉnh Ninh Bình có thể được coi là một thành công của phương thức này. Sự phát triển các làng du lịch cộng đồng ở Hòa Bình, Sapa ở phía Bắc hay Tiền Giang, Trà Vinh ở phía Nam cũng có những thành công đáng kể ở góc độ cộng đồng là chủ thể khai thác và truyền bá về di sản văn hóa, biến phương thức này thành sinh kế theo hướng bền vững.

Nhiều nước quanh ta đã có kinh nghiệm trong việc phát triển du lịch hướng đến thị trường nội địa, như Trung quốc. Có thể nhận thấy các khu du lịch và các bảo tàng, điểm di sản văn hóa ở Trung quốc rất đông khách nội địa. Du khách được tổ chức và hướng dẫn trật tự, nội dung lịch sử - văn hóa được truyền đạt đầy đủ. Đồng thời, nếu là điểm du lịch cộng đồng thì ưu tiên hướng dẫn viên là người của cộng đồng, khuyến khích du khách trao đổi thông tin với người địa phương...

Đối với du khách trong nước, việc có thêm sự hiểu biết về văn hoá các cộng đồng khác, các vùng miền trong nước… giúp nâng cao sự thông hiểu, tôn trọng đa dạng văn hoá, tăng cường đoàn kết. Sự hiểu biết văn hoá Việt Nam sẽ tạo nên lòng tự hào chính đáng, cũng như nhìn lại những hạn chế của chính mình để có thể hoàn thiện hơn. Mặt khác, mỗi người dân sẽ là một “kênh thông tin” về văn hoá Việt Nam khi có dịp ra nước ngoài, tránh sự mặc cảm hay tự tôn quá đáng khi tiếp cận với các di sản thế giới và nền văn hoá khác.

Để phát triển du lịch bền vững thì ngành du lịch cần chú ý đến chủ thể của văn hoá Việt Nam là khách nội địa – khách hàng tiềm năng lâu dài. Sự đáp ứng nhu cầu hiện tại đồng thời với việc nâng cao và tạo ra nhu cầu đa dạng của du khách hướng đến các giá trị tri thức, tinh thần... Sự hiểu biết đúng đắn và sâu sắc về di sản văn hoá của chính người Việt Nam là phương thức quan trọng nhất để giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong thế giới toàn cầu.

 Nguyễn Thị Hậu. TC Du lịch TPHCM số 6+7/2024




 

ĐỊA DANH LÀ VĂN HÓA, LỊCH SỬ VÀ KHOA HỌC

 Nguyễn Thị Hậu

1.

Hiện nay các tỉnh, thành đang thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023-2025. Trên thực tế việc sáp nhập hoặc chia tách huyện, xã hiện nay đang làm dư luận lo lắng, có trường hợp gặp sự phản ứng với việc đặt tên đơn vị hành chính mới, do mỗi nơi có một cách làm khác nhau: hoặc ghép các địa danh cũ tạo ra địa danh mới... vô nghĩa; hoặc sử dụng một địa danh cũ chung cho địa giới hành chính mới làm biến mất các địa danh khác mang tính lịch sử, gây bức xúc cho cộng đồng; hay đặt ra địa danh mới “vô hồn” vì không “liên quan” gì đến địa danh cũ... 

Việc “khắc nhập khắc xuất” đơn vị hành chính ở nước ta đã trải qua vài lần. Vào những năm 1960 khi sáp nhập các tỉnh miền Bắc, quanh Hà Nội có các tỉnh mang địa danh mới là Hà Tây, Hà Bắc, Nam Hà... Giai đoạn sau 1975 cả nước xuất hiện các tỉnh mới có tên ghép như Bình – Trị - Thiên, Hà –Nam – Ninh, Phú - Khánh, hoặc tên mới như Hoàng Liên Sơn, Bình Thuận, Tiền  Giang, Hậu Giang... Khi nghiên cứu lịch sử và các khoa học liên quan trong đó có khoa học quản lý nhà nước, tình trạng các địa danh hành chính thay đổi như vậy gây ra không ít khó khăn.

Từ nhiều năm nay, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử - văn hóa, nghiên cứu lịch sử hành chính rất băn khoăn, vì việc đặt ra những tên gọi/địa danh mới cần phải vừa hợp lẽ (mang tính khoa học, lâu dài), vừa hợp tình (có sự đồng thuận của cộng đồng), nhất là sự thay thế các địa danh có truyền thống lâu dài, mang yếu tố lịch sử, văn hoá. Sự quan tâm của dư luận xã hội về vấn đề này đều với mong muốn làm sao có sự thống nhất cao giữa chính quyền và người dân, để tên gọi mới hài hòa các yếu tố văn hóa – xã hội, địa danh mới phản ánh giá trị lịch sử từ hàng trăm năm, thậm chí hàng nghìn năm phát triển của địa phương. Bởi vì, từ địa danh của các địa phương sẽ phản ánh lịch sử của cả đất nước.

2.

Khái niệm địa danh hiểu đơn giản, đó là danh từ riêng - tên riêng để chỉ một vùng đất, tên núi sông và các địa hình khác nhau. Đó là tên địa phương (làng, xã, huyện, tỉnh, quận, thành phố... ), tên địa điểm, vùng địa lý, khu vực (nông nghiệp, khu công nghiệp, v.v.), tên các quốc gia, châu lục, các khu vực tự nhiên... được ghi lại trên bản đồ. Hai loại địa danh phổ biến là địa danh dân gian và địa danh hành chính.

            Địa danh dân gian thường là tên gọi nơi chốn, địa hình cảnh quan tự nhiên... ở một khu vực, vùng miền, một đất nước... Địa danh dân gian thường biểu hiện bằng ngôn ngữ địa phương nên đa dạng, phản ánh lịch sử và văn hóa cộng đồng. Địa danh dân gian tồn tại trong ngôn ngữ, thói quen sử dụng, ký ức của cộng đồng.

Địa danh hành chính là địa danh ghi trên văn bản do chính quyền nhà nước ở trung ương ban hành, được coi là tên gọi chính thức của các cấp hành chính như thôn, làng, xã, huyện, tỉnh, quận, thành phố, công trình nhân tạo (như kênh đào)... Địa danh hành chính phản ánh lịch sử (thay đổi) địa giới, có thể dử dụng địa danh dân gian nhưng phần nhiều là đặt ra tên gọi mới, có thể thay đổi theo tổ chức hành chính hoặc sau những biến cố, sự kiện lịch sử.  

Trên bản đồ, địa danh được hiểu là tên các đối tượng địa lý thể hiện trên bản đồ, cả địa danh dân gian và địa danh hành chính. Việc ghi nhận địa danh trên văn bản hành chính hay trên bản đồ là việc “chính thức hóa” tên gọi một địa điểm, địa phương, khu vực, vùng miền, các địa hình tự nhiên hay nhân tạo.

Một trong những đặc điểm nổi bật của địa danh nước ta là sự đa dạng về ngôn ngữ, do đất nước có 54 dân tộc anh em, có nhiều vùng địa hình từ núi cao, trung du đến đồng bằng, ven biển, biển và hải đảo. Đa dạng theo không gian (phân bố của các cộng đồng tộc người) và theo thời gian (lịch sử thống nhất đất nước và hình thành các tổ chức hành chính). Địa danh ở vùng miền nào thông thường được đặt bằng ngôn ngữ của các cộng đồng ở đó. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân lịch sử - xã hội nên ngày nay, địa danh ngày càng phức tạp về mặt ngôn ngữ. Việc sử dụng chung một “ngôn ngữ hành chính” cũng là yếu tố làm cho địa danh các vùng miền có nguy cơ biến đổi theo xu hướng mất dần phương ngữ.

Như vậy có thể nhận thấy, địa danh dân gian hay hành chính đều bắt nguồn từ thực tiễn và phản ánh đời sống xã hội - lịch sử - văn hóa. Vì vậy, hệ thống địa danh của một địa phương rất quan trọng, có giá trị để “nhận diện” sự khác biệt, độc đáo, có trường hợp trở thành một “thương hiệu”. Đó còn là nguồn vốn xã hội và tài nguyên văn hóa bản địa.

3.

Có thể khảo sát việc đặt địa danh các đơn vị hành chính ở Nam Bộ dưới triều Nguyễn để phần nào rút ra kinh nghiệm hữu ích. Năm 2008 khi xuất bản công trình Từ điển địa danh hành chính Nam Bộ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư cho biết: có thể coi địa danh hành chính Nam bộ bắt đầu từ năm 1698. Trước đó, Nam Bộ là vùng đất dân cư thưa thớt, đất hoang rừng rậm bao trùm, phần lớn diện tích chưa được khai khẩn... Việc cấu tạo địa giới và địa danh hành chính dưới triều Nguyễn chủ yếu bằng cách dùng từ Hán - Việt và áp dụng các nguyên tắc: Dựa vào địa hình thiên nhiên; Dựa vào khu dân cư, nghề nghiệp; Căn cứ vào trình độ văn hoá cao thấp; Căn cứ vào sự đi lại thuận tiện hay cách trở; Theo đúng nguyên tắc tổ chức hệ thống hành chính đã có sẵn từ trước ở miền Trung[1]. Điều này được phản ánh qua Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. Hệ thống địa danh hành chính và dân gian ghi chép trong công trình này thật sự là vốn tư liệu quý giá về ngôn ngữ, về tự nhiên và đời sống cộng đồng, về quá trình thiết lập hành chính vùng đất Gia Định.

Những công trình lịch sử, công trình về địa bạ, địa chí trong thời Nguyễn cho biết hệ thống địa danh nói chung và địa danh hành chính thời Nguyễn được ghi nhận vào giai đoạn đất nước thống nhất sau hơn 200 năm chia cắt Đàng trong Đàng ngoài. Quá trình tổ chức lại địa giới, quy mô hành chính được triều Nguyễn tiến hành từ từ để thích hợp với thực tế lịch sử - xã hội mới. Việc đặt tên/địa danh mới trên cả nước khá khoa học, nhờ vậy cho đến nay nhiều địa danh dân gian vẫn tồn tại, những địa danh hành chính – nhất là tên các tỉnh - vẫn được sử dụng. Tất cả đã trở thành ký ức cộng đồng bền vững, thân thuộc, một “dấu chỉ” để nhận diện “đặc trưng văn hóa” từng địa phương. Vì vậy hệ thống địa danh này rất có giá trị và cần được tham khảo.

Mặc dù việc sáp nhập giai đoạn 2019 - 2021 còn nhiều vấn đề nhưng theo kế hoạch trong giai đoạn 2023 - 2025, cả nước dự kiến sáp nhập 49 huyện, 1.247 xã, tức là ngần ấy địa danh có thể phải thay đổi. Qua đó dự kiến giảm 13 huyện, 624 xã, tức là có khoảng ngần ấy địa danh có thể “biến mất”. Làm cách nào để có “quỹ địa danh” đáp ứng nhu cầu đó, lẽ ra phải là một việc cần được nghiên cứu và dự kiến từ nhiều năm trước!

Việc sáp nhập các đơn vị hành chính xã, huyện/quận hiện nay cần lường trước những tác động trong quản lý xã hội và tâm lý văn hóa cộng đồng. Có thể cộng đồng dân cư sẽ lưu giữ trong truyền khẩu, trong ký ức những địa danh lịch sử đã bị thay đổi. Nhưng sự lưu truyền ấy không thể lâu dài như hồi thế kỷ 18, 19 bởi tác động của xã hội hiện đại. Xóa một địa danh là mất một di sản văn hóa, đồng nghĩa với việc chặt bỏ một phần gốc rễ cội nguồn, chắc chắn sẽ làm tổn thương sự cố kết cộng đồng dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa nhanh chóng và mạnh mẽ.



https://plo.vn/moi-dia-danh-hanh-chinh-la-nguon-coi-van-hoa-1-vung-mien-post799846.html?fbclid=IwZXh0bgNhZW0CMTEAAR3wLTLPDmNEwkwqGXMqn69Ah1lGkzG4EJEu7a3iAKhqPHTR8b2ewwtQU7A_aem_HH5dnvykhpigXB8-CPekNA



[1] Nguyễn Đình Tư, 2008. Từ điển địa danh hành chính Nam Bộ. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật

MỘT CUỐN SÁCH THÚ VỊ VÀ HỮU ÍCH


Gần đây giới nghiên cứu và những người yêu thích tìm hiểu về chữ viết – một thành tố quan trọng của văn hóa VN - đã vui mừng đón nhận công trình "Lịch sử ngữ pháp và chữ viết dùng chữ cái Latinh của tiếng Việt từ 1615 đến 1919" của Tiến sĩ Phạm Thị Kiều Ly được bảo vệ tại Đại học Sorbonne nouvelle, Pháp năm 2018. Từ công trình này TS Phạm Thị Kiều Ly cùng họa sĩ Tạ Huy Long đã cho ra đời cuốn sách dành cho thanh - thiếu niên Người Việt gọi tôi là Cha Đắc Lộ - Hành trình sáng tạo chữ Quốc ngữ” (tháng 4.2023).

Đây là cuốn tranh truyện bán hư cấu kể lại câu chuyện hình thành chữ quốc ngữ, thông qua hành trình của một số nhà truyền giáo tại Việt Nam. Các sự kiện trong cuốn sách được lựa chọn từ cơ sở tư liệu xác đáng, sắp xếp trong ba phần: Đắc Lộ ký sự, Chữ quốc ngữ ký sự và Phụ lục. Thông qua cấu trúc các phần nội dung, cuốn sách dẫn dắt người đọc theo dõi quá trình hình thành chữ quốc ngữ trong bối cảnh lịch sử - xã hội thời bấy giờ.

 Phần I là truyện tranh về cuộc đời Alexandre de Rhodes, nhưng qua đó người đọc có thể hình dung được một cách cụ thể một hiện tượng lịch sử mà không nhiều người Việt quan tâm và hiểu biết, đó là là quá trình du nhập Công giáo vào Việt Nam. Phần II trình bày khái quát nhưng đầy đủ các sự kiện của quá trình hình thành chữ quốc ngữ dưới dạng thông tin ngắn gọn cho từng vấn đề (như các câu hỏi và câu trả lời). Phần III Phụ lục rất thú vị, ngoài những thông tin bổ sung cho nội dung sách toàn diện hơn còn có phần “talk show” giả định giữa hiện tại và quá khứ, với 3 nhà truyền giáo ở thế kỷ 17 có vai trò quan trọng trong sự hình thành chữ quốc ngữ.

Bằng ngôn từ giản dị, dễ hiểu nhưng thể hiện quan điểm khoa học rõ ràng, cuốn sách giúp người đọc nhận thức tính lịch sử, tính khoa học của sự hình thành chữ quốc ngữ, vai trò của chữ quốc ngữ tại thời điểm nó ra đời và giá trị lâu dài của thành tựu văn hóa này. Cuốn sách không chỉ dành cho thiếu nhi, mà cả người lớn cũng thu nhận được nhiều thông tin hữu ích, khách quan.

***

Chữ quốc ngữ là chữ viết chung của cả nước. Trải qua gần một ngàn năm bị phương Bắc đô hộ nhưng người Việt vẫn nói tiếng Việt. Từ khi giành được độc lập vào thế kỷ thứ X, các triều đại phong kiến nước ta đã mượn chữ Hán (còn gọi là chữ Nho) để sử dụng trong hành chánh, học thuật nhưng chữ Nho chưa bao giờ có vai trò và được phổ biến như chữ quốc ngữ. Từ thế kỷ 13 người Việt dựa trên chữ Hán để làm ra chữ Nôm nên muốn học chữ Nôm thì phải biết chữ Hán. Vì vậy cả chữ Hán và chữ Nôm đều không thể phổ biến trong dân chúng, do đó ít được sử dụng.

Cuốn sách “Người Việt gọi tôi là Cha Đắc Lộ - Hành trình sáng tạo chữ Quốc ngữ” kể lại một cách vắn tắt hành trình truyền giáo các giáo sĩ phương Tây từ thế kỷ 16 đến Đông Nam Á và Việt Nam (thời đó là Đàng Ngoài và Đàng Trong). Khi truyền đạo, các giáo sĩ cần phải biết ngôn ngữ bản địa, sau đó cần có kinh sách để giảng giải. Vì vậy, để truyền đạo cho người Việt, các giáo sĩ phải học tiếng Việt. Từ nhu cầu đó một số giáo sĩ đã ký âm thẳng tiếng Việt bằng mẫu tự la-tinh, rồi dùng thứ chữ mới ký âm này dạy cho nhau nói tiếng Việt. Sau đó tổ chức biên soạn từ điển và in kinh thánh, giáo lý bằng loại chữ mới này.

Thông qua cuộc đời của Alexandre de Rhodes và hoạt động của những người “bề trên, tu huynh” của ông, từ góc độ lịch sử văn hóa, người đọc thấy được quá trình sáng tạo ra chữ quốc ngữ là công trình của nhiều giáo sĩ phương Tây, trong đó có Alexandre de Rhodes. Bên cạnh đó là sự đóng góp thầm lặng của nhiều người Việt cùng thời. Sự ra đời của các công trình được in ấn bằng “chữ Việt” đầu tiên như Từ điển Việt – Bồ - La, Phép giảng tám ngày đã mang lại cho Alexandre de Rhodes vị trí đặc biệt trong quá trình này.

Có thể nói, tgiữa thế kỷ 17 trở đi, nhờ dễ sử dụng bằng cách ghép chữ thành vần nên loại chữ mới bằng mẫu tự Latin phổ biến hơn trong giới truyền giáo và phục vụ nhà thờ. Chữ quốc ngữ phát triển dựa trên nền tảng tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu và đẹp, phong phú, linh hoạt và biểu cảm. Từ nửa sau thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20 với vai trò tiên phong của các nhà văn hóa, trí thức người Việt, cùng với sự xuất hiện nhiều thành tố văn hóa mới: báo chí, các thể loại văn học nghệ thuật, in ấn và xuất bản... chữ quốc ngữ càng có điều kiện phát triển rộng khắp, đồng thời tác động trở lại làm cho “văn viết” và “văn nói” của tiếng Việt ngày càng hoàn thiện.

Từ sau 1945, bằng phong trào “bình dân học vụ” phần lớn dân chúng trước đây “mù chữ” đã biết đọc biết viết. Ngôn ngữ, văn hóa nhiều vùng miền đi vào chữ viết càng làm cho chữ quốc ngữ phong phú và tinh tế, nhiều sắc thái và giàu đẹp hơn. Từ đó chữ quốc ngữ có ý nghĩa thúc đẩy văn hóa phát triển (văn chương, giáo dục, khoa học kỹ thuật...) và hội nhập với thế giới.

***

Năm 2018 tôi có dịp đến thành phố Isfahan - thủ đô của Ba Tư từ năm 1598 đến năm 1722 và là một trong bốn trung tâm kinh tế - văn hóa lớn của Iran. Từ nhiều thế kỷ trước Isfahan được coi là một trong những thành phố đẹp nhất trên thế giới. Hiện nay, Isfahan là thành phố có kiến trúc hiện đại bên cạnh nhiều kiến trúc cổ được bảo tồn rất tốt. Nơi đây có một nghĩa địa lớn, tại đó có phần mộ của Alexandre de Rhodes. Đúng ngày 5.11.2018 - ngày giỗ lần thứ 358 của (5.11.1660) chúng tôi đến viếng và khánh thành bia tri ân tại mộ của Ngài. Giữa nghĩa địa rộng lớn và thoáng đãng như một công viên lớn, hơn 350 năm qua ngôi mộ giản dị của Cha Đắc Lộ nằm đây, đánh dấu bằng một phiến đá lớn có khắc tên Ngài và được chăm sóc chu đáo như tất cả những ngôi mộ xung quanh.

Tại TP. Hồ Chí Minh, từ trước năm 1975 đến nay vẫn có một con đường nhỏ mang tên  Alexandre de Rhodes, con đường rợp bóng cây xanh kế bên công viên trung tâm thành phố. Đối diện bên kia cũng có một con đường nhỏ xinh như vậy mang tên Hàn Thuyên, người được cổ sử ghi nhận là giỏi thơ Nôm và có công với chữ Nôm của Việt Nam. Hành trình chữ viết là một trong những hành trình đi vào văn minh của nhân loại. Nhờ công lao của bao vị tiền nhân, bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ, đất nước ta đã được tham dự vào một đoạn đường quan trọng của hành trình ấy.

Công trình của TS Phạm Thị Kiều Ly và cuốn sách “Người Việt gọi tôi là Cha Đắc Lộ - Hành trình sáng tạo chữ Quốc ngữ” đã “phục dựng” quá trình hình thành chữ quốc ngữ một cách khoa học trong bối cảnh lịch sử - xã hội cụ thể, qua đó nhìn nhận vai trò của các nhà truyền giáo và minh định sự đóng góp của những người quan trọng nhất. Điều này giúp cho người đọc, nhất là những người trẻ, có thể tiếp cận lịch sử - văn hóa một cách khách quan.

 

TP. Hồ Chí Minh, 24.5.2023

Xin cảm ơn tác giả TS Phạm Thị Kiều Ly và Omega Plus Books đã gửi tặng sách quý mới xuất bản ❤







 

ĐIỂM TỰA ĐỂ NINH BÌNH XÂY DỰNG “ĐÔ THỊ DI SẢN”



Cùng với xu thế phát triển đô thị trên thế giới là hướng đến mô hình đô thị có hàm lượng văn hóa cao, có đời sống đô thị giầu tính nhân văn, có thiên nhiên trong lành, có nhịp sống hợp lý, làm giàu bằng kinh tế trí thức. Trong thời gian sắp tới thành phố Ninh Bình và huyện Hoa Lư sẽ được hợp nhất để trở thành Thành phố Hoa Lư. Dựa trên tiềm năng về thiên nhiên - văn hóa - lịch sử của mình, tỉnh Ninh Bình đề ra mục tiêu xây dựng thành phố Hoa Lư là đô thị di sản thiên niên kỷ tiêu biểu. Sự tiếp cận từ địa – văn hoá tìm hiểu các đặc trưng về lịch sử - văn hóa của sẽ góp phần cung cấp luận cứ khoa học thực tiễn cho định hướng tỉnh Ninh Bình phát triển bền vững.

Tính chất ranh giới, chuyển tiếp của địa hình tự nhiênlịch sử

          Ninh Bình nằm ở vị trí ranh giới 3 khu vực địa lý: Tây Bắc, châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Tỉnh này cũng nằm giữa 3 vùng kinh tế: vùng Hà Nội, vùng duyên hải Bắc Bộ và vùng duyên hải miền Trung. Vị trí này “quy định” cho Ninh Bình tính chất là nơi ranh giới mà không đứt gãy, lại mang tính chất chuyển tiếp của các loại địa hình. Nằm ở một đỉnh trên đáy tam giác châu thổ sông Hồng, Ninh Bình ba loại địa hình chính.

Vùng đồi núi và bán sơn địa ở phía Tây Bắc bao gồm các huyện Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp. Trong đó khu rừng đặc dụng Hoa Lư - Tràng An đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới thuộc quần thể danh thắng Tràng An.

Vùng đồng bằng: là vùng đất rộng nhất của tỉnh, nơi tập trung dân cư đông đúc nhất chiếm khoảng 90% dân số toàn tỉnh. Đây là yếu tố quan trọng để xếp Ninh Bình nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng.

Vùng ven biển: Ninh Bình có trên 15km bờ biển, là tỉnh có chiều dài bờ biển ngắn nhất Việt Nam nhưng hàng năm được phù sa bồi đắp lấn ra trên 100m. Vùng ven biển Ninh Bình đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.

Như vậy, Ninh Bình có đủ loại địa hình: núi, rừng, thung lũng, đồng bằng, sông, suối, hồ, biển, đảo. Tính chất chuyển tiếp từ địa hình này sang địa hình khác tạo nên sự đa dạng và phong phú của cảnh quan tự nhiên, đặc biệt là có nhiều thắng cảnh nổi tiếng. Đồng thời cũng tạo ra nhiều tài nguyên tự nhiên: núi đá vôi, rừng, biển, các loại đất, hệ thống sông, suối phân bố rộng khắp trong toàn tỉnh. Không gian tự nhiên này là cơ sở của không gian văn hoá Ninh Bình.

Hệ thống di tích lịch sử văn hóa ở Ninh Bình dày đặc, liên tục về niên đại. Tuy nhiên có thể nhận thấy những di tích quan trọng vì mang ý nghĩa đánh dấu sự chuyển tiếp đặc biệt trong quá trình lịch sử của đất nước. Đó là một số cột mốc sau.

Thời tiền sử trong khu vực hang động núi đá vôi các nhà khảo cổ học đã phát hiện một số di tích thuộc sơ kỳ đồ đá cũ; di chỉ cư trú của con người thời văn hoá Hoà Bình sơ kỳ đá mới. Thời sơ kỳ kim khí với di chỉ Mán Bạc (Yên Thành, Yên Mô), sau đó là nhiều di tích thuộc Văn hoá Đông Sơn hậu kỳ kim khí.

Thế kỷ X “giai đoạn bắt đầu chuyển mình” chính quyền buổi đầu độc lập đã được xây dựng theo hướng “trung ương tập quyền” để có thể giải quyết tình hình bất ổn của xã hội do sự đấu tranh giữa các yếu tố tập trung và phân tán, tình trạng xung đột giữa các thủ lĩnh địa phương đe dọa nền độc lập. Trong giai đoạn này nổi lên sự thành công sáng chói các dòng họ mang nhiều dáng dấp thủ lĩnh địa phương: họ Khúc, họ Ngô, họ Đinh và họ Lê, nhưng chính quyền của họ chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi. Trong bối cảnh đó, vùng đất Ninh Bình trở thành trung tâm của các sự kiện lịch sử vì mang ba ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Thời gian khởi đầu của nền tự chủ: với chiến thắng bạch Đằng năm 938 mở ra thời kỳ độc lập, hay có thể từ trước đó, năm 905 Khúc Thừa Dụ tổ chức một chính quyền tự trị và hệ thống hành chính của người bản địa. Ninh Bình là nơi mà nền độc lập này được hiện thực hóa cụ thể: Đinh Tiên hoàng đế và nước Đại Cồ Việt. 

 Thời kỳ chuyển hoá từ mô hình địa phương rời rạc lên mô hình nhà nước tập quyền: nhà nước Đại Cồ Việt. Đinh Bộ Lĩnh đã chiến thắng các “sứ quân” và xu hướng cát cứ cục bộ địa phương, thành lập một nhà nước tập quyền, làm nền móng cho một quốc gia tự chủ từ đó đến ngày nay.

Sự hiện diện của văn hóa Phật giáo trong hệ thống chính trị mới. Vai trò của nhà sư Khuông Việt như một cố vấn chính trị trong thời Đinh và Tiền Lê; dấu tích còn lại là những cột kinh Phật mà ngày nay trở thành tài liệu quan trọng để  làm tài liệu để nghiên cứu Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ X và sự phát triển sau đó.

Ba ý nghĩa đó tập trung trong khu vực kinh đô Hoa Lư, bắt đầu từ vua Đinh Tiên Hoàng, gắn với sự nghiệp của 6 vị vua thuộc ba Triều đại Đinh - Lê – Lý với các dấu ấn lịch sử. Không chỉ vậy, thế kỷ X và vùng đất Ninh Bình còn có sự xuất hiện của nhân vật lịch sử Dương Vân Nga. Có thể coi sự kiện Thái hậu Dương Vân Nga trao quyền bính cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn vừa mang giá trị phổ quát của lịch sử vừa thể hiện giá trị về giới trong văn hóa Việt Nam.

Tính chất vừa MỞ vừa ĐÓNG của tự nhiên, của văn hoá

Vị hoàng đế đầu tiên của nước Việt thống nhất đã xây dựng kinh đô Hoa Lư dựa trên địa thế hiểm trở, tận dụng điều kiện tự nhiên của thung lũng với các vách núi đá vôi làm thành quách vững chắc, hệ thống sông hồ hào sâu hiểm trở. Kinh đô Hoa Lư là một "quân thành" phòng ngự vững chắc, vừa tiết kiệm sức người và của lại vừa đảm bảo đối phó tối ưu về quân sự. Nhưng từ vị trí này Mở ra tầm nhìn từ Hoa Lư đến Đại La - như Chiếu dời đô đã nhận định “ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”. Từ đó Lý Công Uẩn quyết định dời đô để muôn đời sau có Kinh thành Thăng Long.

Tính chất Mở và Đóng còn thể hiện ở hệ thống sông và đèo. Sông Hoàng Long là con sông gắn với những truyền thuyết về Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ được rồng vàng cõng qua sông chạy thoát khỏi sự truy đuổi của người chú, có một nhánh là sông Sào Khê  mà theo dân gian, bến sông này là nơi Lý Công Uẩn hạ chiếu dời đô để xuống thuyền tiến về Thăng Long.

Đèo Tam Điệp ranh giới giữa Ninh Bình và Thanh Hóa (xưa là ranh giới Giao Châu và Ái Châu), còn gọi là đèo Ba Dội theo tên Nôm. Đầu thế kỷ X, Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền đã dựa vào sự hiểm trở của Tam Điệp để xây dựng và bảo vệ lực lượng ở Thanh Hóa, rồi tiến ra đánh bại quân xâm lược Nam Hán ở thành Đại La (năm 931) và sông Bạch Đằng (năm 938). Phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn của Ngô Thì Nhậm vào cuối năm 1788 đã góp phần quan trọng trong đại thắng quân Thanh của Quang Trung Nguyễn Huệ.

Thế kỷ XIX. Biển không là sự ngăn cản mà là cánh cửa mở rộng của vùng đất Ninh Bình. Năm 1829, huyện Kim Sơn đã được Triều đình nhà Nguyễn thành lập sau công cuộc khai hoang lấn biển của nhà doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ. Dấu ấn về biển tiến còn in đậm trên đất Ninh Bình. Hiện nay kinh tế biển đóng vai trò quan trọng ở Ninh Bình. Vùng đất đồng bằng mới ở Ninh Bình có những giá trị đa dạng sinh học nổi bật toàn cầu đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.

Ninh Bình còn được biết đến với vai trò trung tâm của Công Giáo ở Việt Nam với Giáo phận Phát Diệm và rất nhiều nhà thờ Công giáo. Thế kỷ XVI - XVII, đạo Thiên Chúa được truyền vào Ninh Bình, dần dần hình thành trung tâm Thiên chúa giáo Phát Diệm. Ninh Bình là một tỉnh mở rộng không gian văn hoá Việt xuống biển Đông.

Tính chất đa dạng, hoà hợp của con người với tự nhiên, của các cộng đồng dân cư với nhau

Theo GS Trần Quốc Vượng, “văn hoá trước hết là thế ứng xử của con người với môi trường tự nhiên”. Nhưng “văn hoá một khi đã hình thành, cũng là môi trường sống của con người. Nếu môi trường tự nhiên và môi trường xã hội là điều kiện hình thành và phát triển của môi trường văn hoá thì ngược lại môi trường văn hoá một khi đã xuất hiện lại góp phần rất lớn trong việc tạo ra thế ứng xử và lối ứng xử của con người trong việc không ngừng cải thiện môi trường tự nhiên và môi trường xã hội”.

Danh thắng hỗn hợp Tràng An là một địa danh du lịch tổng hợp gồm các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới đã được UNESCO công nhận ở Ninh Bình. Nhiều di tích danh thắng nơi đây đã được Chính phủ Việt Nam xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt quan trọng như Khu du lịch sinh thái Tràng An, khu du lịch Tam Cốc - Bích Động, chùa Bái Đính, cố đô Hoa Lư... Đây là khu vực điển hình cho tính chất đa dạng nhưng hòa hợp của điều kiện tự nhiên ở Ninh Bình, điển hình cho cảnh quan nhân văn bằng việc đưa những công trình mới vào cảnh quan tự nhiên và cảnh quan lịch sử. Tại đây cộng đồng dân cư đã sống cùng di sản,bảo vệ và phát triển di sản… từ đó phát triển sinh kế mới là nông nghiệp và dịch vụ du lịch.

Hệ thống di tích và lễ hội ở Ninh Bình vô cùng phong phú, đa dạng. Có đến gần 2000 di tích các loại hình, có đến 3 Di tích quốc gia đặc biệt, 1 di sản thei6n nhiên văn hoá thế giới, hàng trăm di tích quốc gia và cấp tỉnh… Ngoài các kiến trúc tín ngưỡng tôn giáo, di tích khảo cổ và danh lam thắng cảnh, các di tích ở Ninh Bình nổi bật lên với tín ngưỡng thờ Vua, thờ Thánh, thờ Thần và chiếm số lượng lớn di tích liên quan đến hai Triều đại nhà Đinh - Tiền Lê. Đồng thời, có thể coi Ninh Bình là vùng Di sản công giáo vì lịch sử lâu đời, mật độ dày đặc các nhà thờ và lối sống, văn hóa của cộng đồng công giáo đặc trưng, góp phần cho sự đa dạng văn hóa của tỉnh và của đất nước.

Từ hiện tượng nhân vật lịch sử Thái hậu Dương Vân Nga không thể không nhận thấy tính dung hợp văn hoá đặc sắc. Cùng một hành động chính trị, cùng một hành xử mang tính cá nhân nhưng từ hai góc nhìn dân gian và “chính thống” sẽ có đánh giá khác nhau do quan niệm khác nhau. Việc dân gian thờ bà cùng hai vua cũng như sự “thể tất” thấu hiểu những ứng xử của bà trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt biểu hiện truyền thống mẫu hệ/”tính nữ” bản địa – coi trọng phụ nữ, phụ nữ có vai trò quyết định khi cần thiết... Trong những thế kỷ về sau truyền thuyết về Dương Vân Nga và việc thờ cúng bà vẫn tồn tại lâu dài ở Ninh Bình, như một sự phản kháng của văn hoá dân gian với tư tưởng Nho Giáo chính thống trong nhà nước phong kiến Đại Việt.

Từ những yếu tố tự nhiên – lịch sử - văn hoá trên có thể nhận thấy 3 ADN tạo nên bản sắc Ninh Bình.

-       Tính chuyển tiếp của địa hình tự nhiên và lịch sử

-       Tính kết nối linh hoạt của tự nhiên, văn hóa

-       Tính đa dạng, hòa hợp của cộng đồng dân cư

ADN là những yếu tố quyết định bản sắc, phản ánh tiến trình lịch sử - văn hóa của một vùng đất, một cộng đồng. AND văn hoá có tính di truyền nhưng cũng có tính phát triển và biến đổi văn hoá. Do vậy, trong quá trình lịch sử những ADN ngày càng được củng cố bền vững. Nếu ADN bị thay thế tất yếu dẫn đến mất bản sắc “ta không còn là ta”. Do đó, ba ADN của Ninh Bình là những điều kiện cơ bản, là cơ sở lịch sử - xã hội để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình nói chung, đồng thời giảm thiểu và tránh được những nguy làm tổn hại và phá hủy di sản văn hóa vật thể, phi vật thể.

Thương hiệu “đô thị di sản” mang lại danh dự, uy tín và cả cơ hội phát triển kinh tế - xã hội. Theo GS. KTS Hoàng Đạo Kính “Đô thị di sản là một chỉnh thể lịch sử đặc trưng, một sản phẩm của nền văn minh đô thị, kết hợp hữu cơ các thành tố vật chất và tinh thần, kiến trúc và văn hóa, trong sự hòa quyện với thiên nhiên, là xuất phát điểm chi phối tất thảy”. Khi Ninh Bình xây dựng “đô thị di sản thiên niên kỷ” thì chắc chắn quá trình đô thị hoá sẽ diễn ra nhanh hơn, tăng cao nguy cơ khai thác không đúng cách, quá mức các tài nguyên bản địa (tự nhiên, văn hóa).

 Trong bối cảnh xã hội mới, nhận rõ bản sắc truyền thống là cách thức đảm bảo cho quá trình phát triển đồng thời với bảo tồn di sản, tài nguyên. Nghiên cứu chuyển biến và tích hợp những ADN lịch sử - văn hóa vào xây dựng Đô thị thiên niên kỷ, chắc chắn Ninh Bình sẽ bào toàn và phát triển một di sản độc đáo và bền vững.

TP. Hồ Chí Minh ngày 9.6.2024

 Nguyễn Thị Hậu

 https://nguoidothi.net.vn/diem-tua-de-ninh-binh-xay-dung-do-thi-di-san-44143.html?zarsrc=31&utm_source=zalo&utm_medium=zalo&utm_campaign=zalo&fbclid=IwZXh0bgNhZW0CMTEAAR2O8rJNcjlbkNAbA-sLnhXkfAJ_vx83z5Cj5gmWE2vaJn8DKojod3DX0jY_aem_1yEa0ChZ2_qKsN98HZY06g

Trải nghiệm tuyến metro số 1 Bến Thành – Suối Tiên

 Hôm qua mình được NAG Minh Hòa rủ đi trải nghiệm Metro tuyến Bến Thành – Suối Tiên. Từ năm 2021 mình đến khảo sát khu vực đang xây dựng nhà ga trung tâm Bến Thành, sau đó đi bộ theo đường hầm từ ga Nhà hát thành phố đến ga Ba Son... Nay trở lại Nhà ga trung tâm Bến Thành đã khá hoàn thiện, đặc biệt khu vực tầng mái toplight luôn hiện lên những hoa văn rất đẹp dưới ánh sáng mặt trời (mà sao nhiều nơi trang trí cứ phải lấy hình tượng hoa sen nhỉ, hoa cúc hay hoa khác cũng đẹp mà?). Dãy máy bán vé tự động, cửa soát vé tự động, thang cuốn và những thiết bị kỹ thuật khác đã được lắp đặt, chỉ chờ ngày đón khách chính thức.

Như nhiều chuyến tàu trong thời gian vừa qua, các chuyến tàu sáng thứ bảy 8/6 dành cho một số đối tượng nhân dân thành phố. Đi thử nghiệm nên chưa áp dụng đúng quy trình chuẩn (ra vào ga, lên xuống tàu...), chưa dừng tại các ga, nhiều người đi lên xuống tàu vẫn thói quen như đi thời bao cấp là dồn ở các toa đầu, chen chúc lên xuống, không để ý hướng dẫn lên xuống được vẽ dưới đất... Nhưng nhìn cảnh bà con già trẻ lớn nhỏ đều háo hức, dù không ít người từng đi metro ở nước ngoài, mới thấy công trình này thực sự có ý nghĩa với người dân thành phố.

Còn vài điều cần chỉnh sửa (như tấm hình dưới đây ghi “đi bến xe Suối Tiên” tiếng Anh lại dịch “Đi Bến xe Suối Tiên” là “For Suối Tiên terminal”)... Ga Bến xe Suối Tiên nằm tại Bến xe Miền Đông mới. Sao không đặt luôn là Ga Bến xe miền Đông để khỏi nhầm với ga trước đặt ngay khu du lịch Suối Tiên nhưng lại có tên “ga Đại học quốc gia”, vì vậy bà con muốn đi KDL Suối Tiên nhiều người sẽ nhầm. Ở các cửa ga đi từ trong ra ngoài, tấm bảng lớn trên cao cần ghi ngay thông tin hướng ra đến đường nào. Hiện nay thông tin này lại để ở một cái cột nên rất hạn chế tầm nhìn, khi đông người cùng xem thì rất khó. Tóm lại nên làm như các ga metro nước ngoài, các hướng dẫn hành khách họ bố trí mình nên làm giống vậy, vì đó là các chuẩn kỹ thuật đã được đúc kết từ lâu. Đồng thời cho dân mình quen thuộc để khi ra nước ngoài dễ sử dụng metro.

Về truyền thông: ngay từ bây giờ (cũng là muộn) cần có những clip hướng dẫn sử dụng máy bán vé, đổi vé, máy soát vé, cách lên xuống tàu, an toàn trên tàu... để phổ biến trên TV, trên các mạng xã hội, đưa vào dạy trong các trường học... (giống như những clip hướng dẫn an toàn trên máy bay). Chưa có quen đi phương tiện công cộng mà sử dụng ngay phương tiện hiện đại như metro chắc chắn sẽ có những nhầm lẫn, thậm chí tai nạn nếu còn tùy tiện lên xuống.

Phần nội thất các ga chưa được trang trí hoặc bố trí quảng cáo, thông tin về các tuyến metro cùng các ga... Nếu tại mỗi ga – nhất là các ga ngầm như Bến Thành, Nhà hát TP, Ba Son – có những bức ảnh về lịch sử khu vực đó thì rất hay, góp phần lưu giữ một phần lịch sử trên mặt đất đã “biến mất” và giúp hành khách hiểu biết về lịch sử TP. Bên cạnh đó có thể là những tác phẩm nghệ thuật hoặc hình ảnh quảng cáo thật đẹp.

Kết nối giữa metro và các hướng đi và đến của người dân chưa thuận tiện. Tại các ga hình như chưa có bãi gửi xe máy hay cả xe hơi? Như vậy cũng rất hạn chế người đi metro vì phần lớn người dân đi xe máy từ nhà ra đường lớn, nơi có đường metro.

Dù vậy, rất mong tất cả sớm được hoàn thiện để Metro tuyến số 1 nhanh chóng vận hành thương mại, bà con chờ quá lâu rồi... Khi Metro số 1 chưa vận hành thì Metro số 2, số 3... thí có lẽ “nhiều khi ước mơ chỉ là mơ ước thôi” như lời bài hát trong chương trình “Ngày xửa ngày xưa”.

Hình ảnh: NAG Minh Hòa



 

DI SẢN CỦA CỘNG ĐỒNG

Vì đặc thù nghề nghiệp tôi có dịp đi đến một số “thành phố di sản” ở châu Âu. Tãi đây cảnh quan đô thị và những công trình kiến trúc thời ...