Ký ức lũ lụt


Hồi gia đình tôi mới tập kết ra miền Bắc, ở Hà Nội nhà tôi ở khu tập thể bờ sông phía ngoài đê. Dãy nhà cấp 4 vách tre đan trát vữa chia làm nhiều gian, mỗi gia đình một gian. Năm nào cũng chạy lụt, má tôi ôm chị em tôi chạy vào ở nhờ mấy nhà trên phố, còn anh Hai tôi và anh Hai của họa sĩ Nguyễn Thanh Bình thì ở lại trông nhà. Nói là trông nhà nhưng tài sản có gì đâu, chỉ là để nếu nước có tràn vào nhà thì lo ôm đồ nồi niêu xong chảo mà chạy.
Lần nào chạy lụt về má tôi cũng thấy mấy chai nước mắm hũ mỡ, thùng gạo hết sạch, nhưng tiền để cho hai anh mua đồ ăn thì còn nguyên. Hỏi, hai anh nói: trời mưa lạnh nấu cơm nóng ăn với mỡ và nước mắm ngon rồi, không cần gì nữa. Hai ông anh đâu biết, mỡ và nước mắm ấy là tiêu chuẩn của mấy tháng má tôi để dành ăn dần 😊
***
Hổi đi sơ tán tôi về Hà Tây. Xã Chu Minh (nơi có đình Chu Quyến nổi tiếng) có một đoạn đê dài (chả nhớ đê của sông gì: sông Hồng? Sông Thao?) chạy qua. Đê cao, vững chãi, trên đê có con đường nhỏ do đi bộ, đi xe đạp mãi mà thành. Bờ đê khá dốc có lớp cỏ xanh rì, thế nhưng mỗi khi trời mưa chị tôi đi học qua đây thế nào cũng bị “vổ ếch” bẩn hết quần áo. Có đoạn dưới chân đê rậm rạp đám cây điền thanh, muồng muỗng gì đó, hoa vàng nhỏ xíu mùi hơi hắc, quyến rũ đám bướm đủ màu sắc lượn lờ. Chiều mùa hè lên đê gió mát lộng, bọn trẻ thả diều hay nằm ở vệ đê học bài như cuốc kêu, hoặc tìm cỏ gà ngồi chơi chọi gà... Tôi hay ra đây đón hai chị đi học ở trường cấp 3 bên xã Tiên Phong về (xã Tiên Phong lại là vùng đồi đá ong, mùa hè nóng bỏng chân, mọc toàn cây Ráng – một loại dương xỉ - người bên xã Chu Minh hay qua đó cắt về đun bếp).
Tôi cũng hay lang thang trên bờ đê đi đến đoạn có cái bến của đò dọc, đò ngang, nhìn ngắm những con đò và người qua lại... Vào những ngày cuối xuân đầu hè, thỉnh thoảng có thuyền ghé vào bến bán cá mòi. Ghé vào bờ họ quạt than nướng cá mòi, đàn ông mua ăn ngay, chấm muối ớt và uống rượu, đàn bà mua về kho khô với nghệ, cá mòi kho khô ăn cơm với rau muống luộc nước vắt chanh thì ngon thôi rồi… Mùa nước lũ, từ bờ đê có thể nhìn thấy rất nhiều chiếc thuyền đi vớt “củi rều” từ thượng nguồn trôi về. Đàn ông đàn bà đều chèo thuyền bằng hai chân, còn hai tay thoắn thoắt vớt củi, họ khéo léo tránh được những cây gỗ lớn hay bè tre trôi trên sông. Chỉ một lúc thuyền đã đầy cành cây lớn nhỏ.
Có năm nước mấp mé mặt đê, dân làng suốt ngày “hộ đê”, bọn trẻ ở nhà tha hồ nghịch ngợm. Đến bữa nấu cơm mang ra cho bố mẹ đang ở ngoài đê, chờ bố mẹ ăn vội vàng miếng cơm rồi mang nồi niêu về nhà. Có hôm chưa xong bữa tiếng trống đã vang lên thùng thùng báo hiệu nước lên... bọn trẻ bị người lớn giục đuổi vội vã chạy nhanh về nhà để ôm sẵn quần áo đồ đạc gọn nhẹ, đề phòng nước tràn đê hay nhỡ vỡ đê thì chạy. Nhưng tôi không nhớ là sẽ chạy đi đâu, vì chưa phải chạy lần nào.
***
Mùa hè 1971. Mỹ dừng ném bom miền bắc. Tôi về Hà Nội đúng những ngày căng thẳng vì trận lụt lớn các tỉnh đồng bằng sông Hồng, đe dọa vỡ đê sông Hồng ở Hà Nội. Năm ấy ba tôi đi chiến trường, nhà chỉ còn hai má con. Má tôi trực ở cơ quan (ngân hàng Hoàn Kiếm trên phố Lê Lai, đối diện vườn hoa có tượng cụ Lê Thái Tổ bây giờ). Vài ba ngày mới chạy về nhà xem xét đồ đạc đã chuẩn bị cho tôi “chạy lụt”. Khu tập thể đã phổ biến, khi nào nghe tiếng kẻng 3 hồi dồn dập như thế như thế... thì nhanh chóng chạy ngay lên dãy nhà 4 tầng là trường học (cả khu có 1 dãy nhà 4 tầng này), mỗi người chỉ được mang 1 balo quần áo và 1 túi đựng thực phẩm, vì rất đông người, sợ không đủ chỗ...
Má về các cô chú xúm lại hỏi thăm ngoài đê thế nào. Má tôi thở dài nói nước lớn lắm, ngồi trên đê khoát nước rửa mặt được...
Theo vikipedia, trận lụt đồng bằng sông Hồng năm 1971 (hay còn được biết đến với tên gọi Đại hồng thủy 1971) là một đợt lũ lụt rất lớn xảy ra ở các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng vào giữa tháng 8 năm 1971. Do chịu tác động của một tổ hợp thời tiết nguy hiểm nên ở khu vực trên đã xuất hiện các trận mưa lớn, gây vỡ đê và khiến lũ trên các sông lên nhanh, nhiều khu vực đạt tới mức báo động 3. Theo số liệu thống kê thì đã có 594 người thiệt mạng, ngoài ra đã có 20 xã, hay 1 huyện bị ngập hoàn toàn (nhưng chưa rõ tên xã huyện nào) với tổng dân số trong những xã đó bị ngập mất nhà cửa vào khoảng 100.000 người. Về tài sản, trận lụt gây thiệt hại về tài sản khoảng 70 triệu đồng theo thời giá bấy giờ (tương đương khoảng 14 nghìn tỷ đồng bây giờ). Ngoài ra, thiệt hại của nhân dân và các địa phương bị ảnh hưởng từ lũ lụt, dịch bệnh, ngừng trệ sản xuất sau mưa lũ là rất lớn không thể thống kê được.
Đây được xem là trận lũ lụt lớn nhất trong vòng 250 năm qua ở miền Bắc Việt Nam, trong 100 năm qua ở vùng đồng bằng sông Hồng và nó đã đi vào ký ức không thể xóa nhòa của rất nhiều người dân sinh sống tại khu vực này. Trận lũ lụt được một cơ quan thời tiết của Hoa Kỳ xếp là một trong những thiên tai lớn nhất của thế kỷ 20, và mức độ thảm khốc do nó gây ra chỉ đứng sau trận lụt trên sông Dương Tử ở Trung Quốc làm hàng triệu người chết xảy ra năm 1931. Một số nguồn thông tin khác, đi xa hơn, còn xếp trận lũ lụt lịch sử tại đồng bằng sông Hồng này vào danh sách 10 trận lũ lụt tồi tệ nhất trong lịch sử lũ lụt thế giới.
***
Năm nay những ngày tháng 9 này tang thương do bão và lũ lụt lại đang bao trùm miền Bắc... Đau lòng vì những tai họa đã từng xảy ra lại tiếp tục xảy ra như lũ quét, như nước dâng nhanh do mưa, do xả lũ... Thiên tai thì khó tránh nhưng sao khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại mà vẫn khó lường, khó cảnh báo, khó đề phòng? Và hầu như vẫn khó giảm thiểu hậu quả nặng nề...

Lịch sử Nam Bộ nhìn từ một gia đình (Nguyễn Thị Hậu giới thiệu)

https://cuoituan.tuoitre.vn/lich-su-nam-bo-nhin-tu-mot-gia-dinh-20240828110356847.htm?fbclid=IwY2xjawFLDhpleHRuA2FlbQIxMQABHepIleyk7lhx3kg62rfzVYeBsUU3RQkJTxg0XRFehZdUKfiZznfnrQQXcw_aem_2dfWw_a7rk--aEhzsErU2A&zarsrc=30&utm_source=zalo&utm_medium=zalo&utm_campaign=zalo

Lưu niên ký sự là tên chữ mà tác giả gọi cuốn sổ Biên việc hằng năm của mình. Bắt đầu từ năm 1823 là năm sanh của ông nội mình, tác giả thuật lại theo ký ức của ông nội và ba về lịch sử dòng họ và về những điều mắt thấy tai nghe của lớp người trước. Đến năm 1926, khi được 43 tuổi, ông Nguyễn Trinh Tường bắt đầu biên chép theo sự từng trải của mình, ký sự dừng ở năm 1940.

Ông Tường là người mần ruộng ở Cù lao Giêng, việc hằng năm chỉ cày bừa gieo gặt chớ có gì đâu. Nhưng không phải vậy, tập biên chép này đặc biệt hấp dẫn và đặc biệt độc đáo ở nhiều chỗ. Đây là một tập tư liệu sử do một nông dân viết, rất khó đụng hàng, bởi thông tin về nghề nông cùng với xã hội nông nghiệp của một thời được nói cụ thể, chi tiết, toàn là những chuyện mà sử gia văn phòng với sử quan cung đình bó tay.

Một miền Tây Nam Kỳ sinh hoạt đời thường, ngoài nghề mần ruộng, các vụ hương chức hội tề, đấu đá kèo xanh kèo vàng, buôn bán, đi lại, ăn chơi, cờ bạc các kiểu, như hiện ra trước mắt ta qua va chạm trực tiếp của tác giả. Đọc tập ký sự như gặp một cuộc đời bình dị mà trải nghiệm đủ thứ, như bản hợp âm của những ông già mang tánh cách Nam Kỳ đã sắp thành truyền thuyết rồi.

Phạm Hoàng Quân


Khoảng tháng 10-1975, lần đầu tiên gia đình tôi tập hợp khá đông đủ tại Sài Gòn, đó là ngày giỗ ông nội của tôi. Trong dịp đó, chú Tám tôi đã tặng lại mỗi nhà một bộ tư liệu ông nội để lại, gồm cuốn gia phả Lịch sử gia đình và tập ghi chép Lưu niên ký sự. 

Hai tư liệu này chú tôi cất giữ từ những năm 1950, sau đó sao lưu làm nhiều bản đề phòng thất lạc do chiến tranh, và cũng để gửi lại các gia đình "để biết gốc gác bà con" như tâm nguyện của ông nội tôi lúc sinh thời. Đây là kỷ vật của gia đình, ba tôi đã giao cho tôi (là đời thứ 7) trách nhiệm lưu giữ hai tư liệu này.

Ông nội tôi tên Nguyễn Trinh Tường (tự Nguyễn Văn Bảy), sinh năm 1881 tại làng Mỹ Chánh trên Cù lao Giêng, nay là xã Mỹ Hiệp, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, trong một gia đình nông dân. Tuy gia đình nghèo nhưng nhiều đời có truyền thống chăm lo việc chung của làng xã, được làng xã tín nhiệm, bà con quý mến. Ông tôi tham gia vài chức vụ nhỏ của làng, hành xử mọi việc với tấm lòng ngay thẳng, cương trực.

Ông tôi có hai người vợ: bà thứ nhất là Nguyễn Thị Sung, thân mẫu của bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng (con trai thứ ba), Anh hùng lao động. Nguyên phó chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nguyên bộ trưởng Bộ Y tế nước VNDCCH. 

Bà bị bệnh mất khi ông Hưởng còn nhỏ tuổi. Ông nội cưới người vợ thứ hai là bà Nguyễn Thị Lượm, sinh thêm ba người con trai: ông Nguyễn Văn Bá (thứ tư), ông Nguyễn Ngọc Bạch (thứ bảy) và ông Nguyễn Thừa Nghiệp (thứ tám). Ông bà nội tôi cũng có mấy người con gái nhưng đều mất khi còn nhỏ.

Năm 1947, ông nội tôi bị giặc bắn chết tại Cù lao Giêng, sau khi chúng tra khảo bắt ông phải gọi hai người con đi kháng chiến (là bác Ba và ba tôi) về đầu thú nhưng không được. Sau đó bà nội tôi theo gia đình lên sinh sống ở Sài Gòn và mất năm 1963. Sau năm 1954, bác Ba và ba tôi tập kết ra Bắc, còn bác Tư và chú Tám tôi ở lại hoạt động trong phong trào đô thị.

Công trình gia phả Lịch sử gia đình là bản đánh máy một mặt có 64 tờ (cả bìa) trên khổ giấy A4 được nhân ra 100 bản vào ngày 3-9-1969. Trang đầu của tập tài liệu có "Bức thơ ngỏ" nhân một cuộc họp gia đình tại Sài Gòn ngày 25-5-1969: "Vì bản này chỉ có một bản chánh do tác giả dày công sưu tầm và viết ra, nên nhân một ngày giỗ ông bà, chúng tôi đã bàn với nhau và có đồng ý là nên sao ra nhiều bản để được nhiều người trong gia tộc giữ, hầu tránh sự thất lạc một tài liệu di tích chung. Việc làm đó cũng phù hạp với sở nguyện của tác giả đã được tỏ bày trong tập Lịch sử gia đình. Chúng tôi chỉ làm một công việc nhỏ là sao y bản chính, sửa lại ít chữ cho đúng chính tả, còn sự ghi chép các sự kiện (có thể đúng hay sai) cùng là sự nhận xét hay phê phán (có thể khách quan hay chủ quan) đều là của tác giả, mà chúng tôi xin trân trọng nguyên văn".

Tập ghi chép Lưu niên ký sự là bản photo trên khổ A4 gồm 94 trang (không kể bìa). Trang đầu ghi rõ Lưu niên ký sự tập I từ 1890 đến 14.11.1935. Chữ viết tay chủ yếu là chữ quốc ngữ có xen chữ Hán, chữ Pháp. Được photo làm bốn bản cho bốn người con trai. Bản gốc do gia đình chú tôi là ông Nguyễn Thừa Nghiệp lưu giữ. Tuy nhiên, trải qua thời gian dài gia đình di chuyển nhiều nơi, việc bảo quản khó khăn bên hai bản tài liệu viết tay không còn nguyên vẹn.

Lịch sử nam bộ nhìn từ một gia đình - Ảnh 2.

Hình bìa của hai tập tư liệu

Tác giả Nguyễn Trinh Tường biên chép tài liệu này gồm hai phần: Kính lục sự tích và Gia phả. Ông đã tìm kiếm và biết được từ đời thứ nhất là ông thỉ tổ Nguyễn Văn Ngải (và bà Cao Thị Ly) đến đời ông là đời thứ 5, các con ông là đời thứ 6. Trong "Lời nói đầu" của tác giả, tập Lịch sử gia đình nêu rõ mục đích như sau:

"Nhiều nhà nhóm thành họ, nhiều họ nhóm thành nước. Mà muốn hiểu biết việc đời dĩ vãng, thì nước phải có quốc sử, họ phải có thế phổ, nhà phải có gia phổ, đặng biên chép những việc cổ vãng và kiêm lai. Biên chép đặng biết mà chi? Có hai lẽ:

1/ Nước cho biết loài dân mà ái quần ái chủng, họ và nhà cho biết tông chi liên lạc mà thương yêu giòng họ, cũng như cây có nhánh phải biết gốc, nước có giòng chảy phải biết có nguồn. Một mai mà rễ của gốc mục thì nhánh phải héo, nguồn ruỗi cạn thì giòng chảy phải khô.

2/ Nước biết những lịch triều vương đế, họ biết những thế hệ tổ tiên, lớp trước làm bởi thế nào, mà ra đời phải thạnh suy, tồn vong, bĩ thới. Biết mà chi? Nước phải biết lớp trước để làm gương đặng sửa sang chánh trị cho bền vững giang san, họ và nhà cho biết lớp trước làm gương mà cư xửa cho tấn hóa gia đình. Nếu người đáng gương tốt thì chúng ta học đòi bắt chước, nếu người cho là gương xấu thì ta giữ lòng chừa cải. Nếu không quốc sử không thế phổ thì sao? Nếu nước không quốc sử sẽ lần lượt đến tiệt chủng, nhà không thế phổ thì thân thích phải chia lìa. Rồi ra, loài dân thì giất lẫn nhau, thân thích thì kiện cáo nhau không biết nguồn biết gốc. Bởi cớ, nên nhà phải có thế phổ, cho biết mà thương yêu nhau, giữ gìn nhau, dạy bảo nhau, đời đời cho ra dòng hiếu tử, rồi hiệp lại thành nước thì ra giúp nước mới có mặt trung thần, vậy có đáng lập gia phổ chăng? Tôi xin trả lời đáng lắm".

Lịch sử nam bộ nhìn từ một gia đình - Ảnh 5.

Phong cảnh đồng quê Nam Kỳ, khoảng 1687-1868. Ảnh: JOHN THOMSON

Ông cũng nêu rõ quan niệm ghi chép gia phả: "Mà sự lập quốc sử hay là thế phổ là chỉ muốn trải trên mặt tờ giấy những sự thiệt, mà làm một bức ảnh cho đời sau soi chung. Nên chi dòng Thái sử gặp vua hôn dầu chém giết cũng cứ cầm viết biên ngay, như là việc tùy Vương đế thí phụ tự lập, Kiệt, Trụ, U, Lệ gương xấu Võ, Thang, Văn, Võ gương tốt, cũng phô lên.

Nay tôi muốn học đòi, xin cáo lỗi cùng người trên kẻ dưới dẫu ai có hẹp lòng buộc lỗi thì tôi cam chịu tội.

Tôi nghĩ một cái thân ta có tứ chi mà không trọn, huống chi họ ta cả trăm ngàn mà không người tốt kẻ xấu, nếu đồng nhau thì tạo hóa bất công, vì tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác, thiện ác chi báo như ảnh tùy hình, cái bánh xe luôn hồi phải vậy".

Về phương pháp ghi ghép, ông nêu "Từng thứ nhất từ thỉ tổ đến ba đời làm căn bản. Từng thứ hai đời thứ 3 làm gốc sanh ra đời thứ 4, thứ 5 và thứ 6. Từng này chia ra 9 cái tông chi cho dễ xem. Rồi lần lượt kể sự tích của mỗi đời, mỗi người, kể tới đời thứ 5 (là đời của tác giả). Sự lập tông chi tới 5 đời phải dứt ra một đoạn. Tôi lấy làm ao ước đời sau mỗi chi (trong 9 chi nầy) cứ gốc ông Thỉ tổ biên đại khái theo nhánh của mình mà đi roi xuống đời đời đừng cho dứt, thì lấy làm thỏa cái sở nguyện của tôi vô cùng".

Phần Kính lục sự tích ông bà các đời, ông ghi chép ngắn gọn các nội dung: tên ông, tên bà (có mấy vợ cũng ghi hết). Nguồn gốc từ đâu, đến nơi nào sinh sống, khái quát gia cảnh, có mấy người con, tên (không biết cũng ghi rõ là không biết), số con cũng như tên họ con trai và con gái. Những sự kiện chính. Mất năm nào, mộ ở đâu, ngày giỗ... Tuy ngắn gọn nhưng đầy đủ và đặc biệt chân dung cá nhân hiện lên khá rõ ràng.

Lịch sử nam bộ nhìn từ một gia đình - Ảnh 4.

Quán vỉa hè, Sài Gòn, những năm 1920. Ảnh: FERNAND NADAL

Cũng có một số người không có ghi chép gì. Theo lời kể của ba má tôi, trong những năm trước 1945, ông nội tôi đạp xe (loại bánh đặc) đi khắp lục tỉnh, thậm chí đi tàu sang tận Nam Vang (Phnom Penh) để tìm bà con... Tuy nhiên có nhiều chuyến đi không tìm được ai hoặc không tìm ra tung tích một người nào đó.

Theo ghi chép của ông, thì "Thỉ tổ sanh vào thế kỷ 18 ở vào Quy Nhơn hay Nghệ An chưa rõ, vì nghe lời truyền thất thố chưa chắc được". Điều này khá phù hợp với lịch sử chung của vùng đất Nam Bộ "300 năm" dân cư chủ yếu đến từ Ngũ Quảng, có gốc gác từ vùng Thanh - Nghệ.

Phần Gia phả được ông ghi chép khoa học, rõ ràng, dễ hiễu, dễ tra cứu. Gồm 6 đời (tác giả là đời thứ 5, các con là đời thứ 6) sắp xếp theo chữ cái từ A đến F. Mỗi người thêm số phía sau. Tổng số tác giả ghi chép được: Đời thứ Nhất: A = 1 người; Đời thứ Hai: B = 6 người; Đời thứ Ba: C = 14 người; Đời thứ Tư: D = 37 người; Đời thứ Năm: E = 121 người; Đời thứ Sáu: F = 353 người.

Theo đó có thể hình dung chính xác, ví dụ đời thứ Nhất: A1 = ông Nguyễn Văn Ngải (bà Cao Thị Lý), có 6 người con từ B1 đến B6 và 14 người cháu từ C1 đến C14. Đời thứ Hai: B1: Nguyễn Văn Nhiên (Thị Nhàng ngươn phối) có 8 người con từ C1 đến C8 và có 33 người cháu từ D1 đến D33. Đời thứ Hai B2... B6: tương tự vậy.

Như vậy mỗi đời đều có thể nhận biết từ ông bà đến con và cháu, cho thấy sự liên hệ lịch đại và huyết thống chặt chẽ. Giữa những người cùng một đời (B, C hay D...) cũng dễ dàng tìm thấy quan hệ trên (đời ông bà) hay dưới (con, cháu) của mình. Hoặc từ thế hệ sau có thể tìm ra mối liên hệ huyết thống của thế hệ trước (tìm bà con nguồn gốc)...

Đặc biệt trong gia phả, tác giả ghi đầy đủ trong mỗi gia đình có các con gái lấy chồng ở đâu, làm gì, mất năm nào. Tương tự với các con dâu cũng vậy. Đây là điều hiếm có trong gia phả của nhiều dòng họ gia đình thời bấy giờ. Tập hợp những hoàn cảnh, gia đình này, ta có thể hình dung bối cảnh xã hội, lịch sử một giai đoạn khá dài.

Ở góc độ "văn bản học", tôi tin rằng đây là một công trình có giá trị về văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết... phản ánh xã hội những năm cuối thế kỷ 19 đến khoảng 1940 của vùng đất Cù lao Giêng nói riêng và cả Nam Bộ nói chung. Trong những năm gần đây, nhiều gia đình dòng họ đã quan tâm đến việc tìm hiểu và ghi chép gia phả. Đây cũng là một xu hướng mới trong nghiên cứu lịch sử, khi nguồn sử liệu được các nhà sử học quan tâm đến từ tài liệu của các gia đình, dòng họ. Đồng thời trong xã hội việc thu thập và nghiên cứu "sử kể" (Oral history) cũng phổ biến hơn. Tất cả nhằm mang lại cho lịch sử cái nhìn toàn diện, phong phú, đa dạng và khách quan.

Gia đình chúng tôi mong sớm có điều kiện để xuất bản những tư liệu quý này, góp thêm tài liệu nghiên cứu con người - dòng họ - lịch sử - văn hóa Nam Bộ.

[Đọc lược trích Lưu niên ký sự tại đây]

Tập Lưu niên ký sự ông Nguyễn Trinh Tường ghi chép về cuộc đời mình từ thơ ấu (từ 1890) đến cuối năm 1935. Có thể coi là một cuốn hồi ký chân thực về gia đình, cá nhân và một số sự kiện xã hội tác động đến hoàn cảnh gia đình.

Qua Lưu niên ký sự hiện ra chân dung của một con người rất thật thà, siêng làm lụng, thương yêu vợ con rất mực và cũng rất người, nghĩa là cũng có những lúc sa ngã, yếu lòng. Không tự tô vẽ, làm đẹp chân dung mình, ông không ngại nói đến những thói hư tật xấu của ông bà mình, không ngại nói về những vấp ngã của đời mình, mục đích trước là để nhắc nhở mình, sau là để răn dạy con cháu. Gọi là "lưu niên ký sự" vì đây không phải là nhật ký ghi lại hằng ngày mà ông ghi lại hằng năm, nhưng vẫn rất cụ thể.

Không chỉ là những ghi chép về một cuộc đời riêng, Lưu niên ký sự còn cung cấp cho chúng ta nhiều tư liệu quý, rất cụ thể về lịch sử, xã hội, phong tục tập quán, văn học dân gian… của Nam Bộ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, từ những biến cố lịch sử trong thời kỳ đó đến cách ăn mặc, tục cưới hỏi, các điệu hò…

Về văn phong, mặc dù được viết cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 nhưng Lưu niên ký sự khá hiện đại, ngắn gọn, chịu ảnh hưởng của ngữ pháp phương Tây khá rõ, hầu như không chịu ảnh hưởng của văn chương biền ngẫu thời đó. Ông dùng khá nhiều phương ngữ, có từ nay không còn dùng nữa, nhưng đặt trong văn cảnh vẫn có thể dễ dàng hiểu được.

Đọc Lưu niên ký sự thấy trong đó có một tấm lòng của tác giả đối với quê hương bản quán. Chưa làm được những việc lớn, ông đã cống hiến cho xã hội bằng những việc cụ thể, từ việc xây trường học để học sinh có chỗ học hành gần nhà đến làm cầu, sửa đường cho nhân dân đi lại dễ dàng. Vì vậy chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy cụ sinh ra những người con biết hy sinh cuộc sống thành đạt, phong lưu của riêng mình để cống hiến khi đất nước lâm nguy.

PGS.TS Võ Văn Nhơn (Đại học KHXHNV TPHCM)

LƯU GIỮ KÝ ỨC NHỮNG NGÀY ĐẦU TẬP KẾT


Nguyễn Thị Hậu
Từ tháng 9 năm 1954 đến tháng 7 năm 1955 là thời kỳ chuyển quân tập kết theo qui định của Hiệp định Genève về Việt Nam. Trong khoảng 300 ngày đó, có một sự kiện nổi bật diễn ra trong phạm vi cả nước là cuộc di dân, chuyển quân tập kết diễn ra sôi động. Đã có khoảng 150.000 người chuyển cư từ vùng phía Nam ra miền Bắc, bao gồm cán bộ chiến sĩ trong lực lượng vũ trang, cán bộ chính quyền, Đảng các cấp và một số nhân sĩ trong mặt trận… từng chiến đấu, công tác trong các chiến trường phía Nam, được lệnh rút quân ra Bắc. Họ ra đi từ các vùng chiến khu và vùng giải phóng.
Trong hiệp định Genève đã quy định thời hạn tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt Nam vào tháng 7.1956 nên toàn thể nhân dân miền Nam tập kết ra Bắc đều tin rằng sau hai năm ra Bắc tập kết sẽ trở về, trước khi lên tàu các cán bộ, chiến sĩ và nhân dân miền Nam vẫy tay tạm biệt người thân, bạn bè, chiến hữu nhau bằng cách giơ hai ngón tay lên hàm ý hai năm sẽ gặp lại; nhưng không ngờ cuộc chuyển cư đó kéo dài đến 20 năm sau.
Ba má tôi tham gia kháng chiến ở miền Tây Nam bộ. Từ Chắc Băng - Cà Mau, cuối năm 1954 ba tôi đi chuyến tàu đầu tiên tập kết cùng khối văn nghệ - lúc ấy ba tôi phụ trách Đoàn ca kịch Cửu Long Giang ở miền Tây Nam bộ. Trong đoàn lúc đó có các cô chú sau này là những văn nghệ sĩ nổi tiếng như Quốc Hương, Hoàng Việt, Phan Nhân, Phan Vũ, Xuân Mai, Hoàng Mãnh, Kim Nhụy, Phi Điểu, Hoàng Hiệp, Đắc Nhẫn... và rất nhiều các cô chú là những nghệ sĩ sau này thành danh trên đất Bắc.
Má tôi ra đến Sầm Sơn vào tháng 2.1955 trên chuyến tàu tập kết cuối cùng cũng từ Chắc Băng, Cà Mau. Khi ấy má tôi là nhân viên Sở Y tế Nam bộ dưới quyền bác tôi là Giám đốc Sở: Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng – sau này là Bộ trưởng Bộ Y tế nước VNDCCH.
Có thể nói gia đình tôi là một trong số ít các gia đình may mắn vì được đi tập kết cả hai vợ chồng. Đi theo má tôi trong chuyến tàu cuối cùng đó còn có anh Hai, chị Ba của tôi lúc đó mới 9 tuổi và 4 tuổi. Còn tôi thì được sinh ra ở Hà Nội và được cùng gia đình trở về quê vào tháng 5.1975. Câu chuyện về chuyến tàu tập kết và những ngày đầu tiên ra Bắc sống với đồng bào Thanh Hóa, ba má tôi hay kể lại trong những năm tháng xa quê dài đằng đẵng. Mỗi khi nhắc lại kỷ niệm này dường như ba má tôi cảm thấy ngày về quê gần gũi hơn một chút...
Trong hồi ký ba tôi có vài đoạn viết về những ngày mới tập kết ở Thanh Hóa:
Cho đến một ngày, cuối năm 1954, giữa một rừng cờ đỏ vàng sao, gia đình và đồng bào tiễn đội ngũ chúng tôi lên đường tập kết… Lần đầu tiên có chuyến đi xa, nhưng không một ai thiết nhìn phong cảnh. Chúng tôi vừa để lại phía sau những gì thân thương nhất, vừa lo âu không hiểu rồi đây tương lai của mảnh đất quê hương yêu mến rồi sẽ ra sao, vừa băn khoăn cố gắng hình dung những nhiệm vụ nặng nề sắp đến, tự hỏi mình có gánh vác nổi hay không?
Tàu Xta-vơ-rô-pôn cập bến Sầm Sơn vào một buổi sáng mùa đông, gió lạnh chạy dài trên biển. Đồng bào đông đảo nồng nhiệt đón tiếp chúng tôi. Trống ếch rập rùng, nhưng lòng chúng tôi đau quặn vì thấy bà con ăn bữa cháo bữa rau, nhưng vẫn dành cho những đứa con miền Nam cơm đầy thịt đủ.
Kế tiếp là những năm dài “ngày Bắc đêm Nam”, là những chuyến lưu diễn liên miên: Rừng núi Việt Bắc, đồng ruộng khu Ba, khu mỏ Quảng Ninh, giới tuyến Hiền Lương… Tới đâu chúng tôi cũng ráng đem lời ca tiếng hát góp phần cho than, lúa thêm nhiều, đem chút ít tình cảm ấm áp cho anh em đồng hương, ráng làm hết sức mình vì miền Nam ruột thịt.
Trong năm 1955 (300 ngày chuyển quân) ba tôi cùng đoàn văn công nhiều lần quay lại Liên khu 5 để biểu diễn phục vụ đồng bào trước khi giới tuyến đóng cửa. Những chuyến đi cũng trên những con tàu đưa người tập kết ra, nhưng lần này từ Sầm Sơn, Thanh Hóa vào Nam. Mỗi lần như vậy “cảnh tiếp đón đồng bào chiến sĩ miền Nam tập kết cách đây mấy tháng lại diễn ra”.
Má tôi quê ở Cao Lãnh – một trong ba nơi xuất phát các chuyến tập kết. Tuy nhiên má tôi lại đi tập kết tại Cà Mau. Tháng 2.1955 ra đến Thanh Hóa vào những ngày lạnh lẽo, do lần đầu tiên đi biển nên vừa bước lên tàu là bà bị say sóng suốt hành trình, khi tàu cập bờ ở Sầm Sơn thì đến một tuần sau bà vẫn chưa hết bệnh. Hai anh chị tôi còn nhỏ nhưng không sao, trên tàu thì chơi với các cô chú, vào bờ thì được bà con chăm sóc “vì mẹ các cháu đang ốm”.
Má tôi còn nhớ hoài những chia sẻ ấm áp nghĩa tình của đồng bào Sầm Sơn trong những ngày lưu trú tại đây. Lúc ấy, má tôi một mình với hai con nhỏ, ở nơi “lạ nước lạ cái” nhưng được bà con Sầm Sơn coi như người nhà, giúp đỡ từ việc nhỏ đến việc lớn. Từ việc đi chợ mua thức ăn – nhiều loại rau, thực phẩm má tôi không biết gọi là gì, “ngôn ngữ bất đồng” nên nói gì người bán người mua cũng không hiểu nhau, vậy là người bán cứ bán người mua cứ mua, không nói thách cũng không trả giá... Về sau mỗi khi thấy “các bác miền Nam” đi chợ, người bán lại nhắc nhau là các bác ấy hay mua thức ăn gì, rồi tự mang đến đưa cho. Đến việc lo người miền Nam không quen với cái lạnh miền Bắc nên đồng bào mang nhiều rơm đến những gian lán trại mới xây dựng tạm đón người tập kết, kết thành các ổ rơm để có nơi nằm ấm áp... Nhiều sinh hoạt ở nông thôn miền Bắc thì cán bộ miền Nam tập kết chưa quen nên cũng gây ra một số hiểu nhầm, nhưng đồng bào luôn bỏ qua, dần dần hai bên thông hiểu nhau hơn.
Cùng chuyến đi với má tôi có nhiều cô đang mang thai, rồi sinh con trên đất Thanh Hóa. Tôi có vài người bạn là những đứa trẻ như vậy và cho đến nay họ vẫn nhận là “đồng hương” với người Thanh Hóa.
Sau hơn hai tháng ở Sầm Sơn má tôi nhận được quyết định công tác nên về Hà Nội. Từ đó cho đến ngày về quê hình như bà không có dịp trở lại Thanh Hóa, nhưng ký ức về tình cảm của bà con ở đây thì má tôi không bao giờ quên, luôn kể lại cho con cháu nghe...
Tôi thuộc thế hệ được sinh ra và lớn lên ở miền Bắc. Từ 1975 tôi theo gia đình trở về TP. Hồ Chí Minh, về quê hương ở miền Tây Nam bộ. Làm nghề nghiên cứu và giảng dạy lịch sử chuyên ngành khảo cổ học nên tôi có nhiều “duyên nợ” với Thanh Hóa – nơi mà ba má tôi lần đầu tiên đặt chân lên đất Bắc, bắt đầu của thời kỳ “ngày Bắc đêm Nam” dài đến 21 năm.
Nhờ công việc nên tôi được đến Thanh Hóa nhiều lần, làm việc với bảo tàng tỉnh, các di tích khảo cổ học như Núi Đọ, Đông Sơn và nhiều di tích lịch sử - văn hóa, một số nhà sưu tập tư nhân. Đặc biệt khu di tích Lam Kinh (huyện Thọ Xuân) và khu di tích thời Chúa Nguyễn (Gia Miêu, huyện Hà Trung) là nơi mà mỗi lần trở lại tôi đều có thật nhiều cảm xúc...
Mỗi lần về quê ngoại là thành phố Cao Lãnh, có hai nơi tôi thường ghé lại. Đó là khu mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc – nơi có sự góp sức của gia đình bên ngoại tôi trong việc gìn giữ và chăm sóc suốt những năm chiến tranh. Nơi thứ hai là Di tích Quốc gia Địa điểm Tập kết ra Bắc năm 1954 tại Cao Lãnh.
Công trình được xây dựng bên bờ sông Tiền, ngay tại địa điểm diễn ra sự kiện Tập kết năm 1954. Tượng đài tại đây được chọn từ cuộc thi sáng tác với chủ đề “Con ra thưa với cụ Hồ, Việt Nam chung một ngọn cờ mà thôi.” Đó là hình tượng người mẹ lưu luyến tiễn con đi tập kết, đứng trên đài sen cách điệu; hai bên là hai bức phù điêu thể hiện hình dáng con tàu cách điệu ghi lại sự kiện 100 ngày tập kết tại Cao Lãnh với những hoạt động thể hiện tình đoàn kết gắn bó giữa quân và dân. Đây là hai khu vực được người dân Cao Lãnh và nhiều nơi khác thường đến thăm viếng, học sinh đến đây học về truyền thống lịch sử và nghĩa tình Bắc – Nam.
Trong thời kỳ chiến tranh, đất nước tạm thời chia cắt hai miền, suốt những năm sống ở Hà Nội, ở miền Bắc, gia đình tôi thấm thía sự đùm bọc chia sẻ của đồng bào miền Bắc “cho người miền Nam”. Thời kỳ này vô cùng khó khăn thiếu thốn nhưng sự đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, tinh thần “lá lành đùm lá rách”... trước hết là từ tình cảm đồng bào miền Bắc thương những người miền Nam phải xa quê nhà xa gia đình...
Nhân kỷ niệm 70 năm tập kết xin được kể lại vài câu chuyện của gia đình tôi trong bối cảnh chung của đất nước trong thời kỳ chiến tranh, góp phần lưu giữ và bảo tồn ký ức một sự kiện lịch sử của đất nước, thể hiện nghĩa tình của đồng bào “người cùng một nước”.

VỀ PHƯƠNG NAM LẮNG NGHE…

 Thời mở đất

Cuốn gia phả gia đình tôi mở đầu bằng câu “con chim có tổ, con người có tông…”. Theo tinh thần ấy, hồi những năm 1930, từ một làng nhỏ trên Cù lao Giêng (Chợ Mới – An Giang), ông nội tôi đã đi nhiều nơi tìm bà con dòng họ và lần về cội nguồn quê quán. Gia phả được ông ghi chép đến ông sơ đời thứ nhứt là “ Quảng Ngãi hay Bình Định, mà gốc gác chắc cũng từ vùng Thanh Nghệ, tránh giặc mùa mà lưu lạc vô nơi này…”. Theo cuốn gia phả này thì đời ông nội tôi là thứ 5 và đến tôi là đời thứ 7.

Gia phả nhiều gia đình, dòng họ ở Nam bộ cũng ghi nhận quê hương là miền Trung từ nhiều đời trước… Lịch sử ghi nhận những đợt chuyển cư từ vùng Ngũ Quảng vào đất Đồng Nai - Gia Định diễn ra không ồ ạt nhưng tương đối đều đặn và liên tục. Những đoàn lưu dân tự phát gồm người cùng quê hương bản quán, cùng dòng họ, theo quy luật “người đi trước rước người đi sau”, đến những đợt di dân quy mô lớn do triều Nguyễn tổ chức, “những người dân có vật lực ở xứ Quảng Nam, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn mộ vào Nam khai phá” như Lê Quý Đôn ghi chép trong Phủ biên tạp lục... Nương theo bờ biển bằng những chiếc ghe bầu lưu dân vào miền đất mới theo hai con đường chính: từ cửa Cần Giờ ngược dòng Đồng Nai vào vùng Gia Định. Từ đó có thể đi theo sông rạch về miền Tây mà nơi dừng chân đầu tiên là khu vực Long An ngày nay.

Một con đường khác là đi vào các cửa sông Tiền thuộc vùng Mỹ Tho, Bến Tre rồi dừng chân trên những giồng, gò còn hoang sơ nhưng rộng rãi bằng phẳng, gian nan khai khẩn trồng trọt, đánh bắt cá tôm... bắt đầu cuộc sống trên “vùng đất mới”. Vài đời sau vì kế sinh nhai, vì chiến tranh hay những lý do khác, con cháu họ di chuyển và phân tán đi nhiều nơi, khai phá vùng đồng bằng rộng lớn.

Chính vì vậy mà ở Nam bộ có rất nhiều di tích phản ánh thời “mở đất”: đình làng, đền, miếu, lăng mộ... thờ cúng bái vọng những nhân vật lịch sử, mà phần lớn gốc gác đều từ vùng Ngũ Quảng.

Lưu danh sử sách

An Giang quê tôi là nơi có nhiều di tích của những công thần nhà Nguyễn quê ở miền Trung, nổi bật là hai danh thần Nguyễn Hữu Cảnh và Nguyễn Văn Thoại.

Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh là người có công lớn trong việc khai hoang, lập làng, xác định chủ quyền, bình định an dân… trên vùng đất Gia Định xưa nên cư dân Nam Bộ lập nhiều đình, miếu, kính cẩn tôn thờ ông là “Thượng đẳng phúc thần”. Tại An Giang, dọc bờ sông Tiền ngày trước, nơi mà thuyền ông từng đi ngang hoặc ghé qua, cư dân xây dựng nhiều đình, dinh để ghi nhớ công trạng của ông. Ở huyện Chợ Mới, nơi ông từng dừng chân năm 1700 được gọi là cù lao Ông Chưởng. Con rạch nối sông Tiền với sông Hậu được gọi là rạch Ông Chưởng (sông Ông Chưởng). Tại những nơi ông đến, người dân lập dinh, đình thờ để tưởng nhớ công ơn. Ở cù lao Ông Chưởng có 2 dinh quan trọng: Dinh Ông Long Kiến và Dinh Ông Kiến An. Tai đây lễ kỳ yên hàng năm được xem là ngày lễ lớn trong năm.

Cù lao Ông Chưởng từ lâu đã gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của huyện Chợ Mới. Đây là một trong những vùng đất được khai phá đầu tiên trong tỉnh An Giang, mở ra cơ hội cho lưu dân người Việt khai phá, định cư, lập làng, tiến tới xác lập chủ quyền trên thực tế ở vùng đất này.

Cuộc đời binh nghiệp của Thoại Ngọc Hầu (Nguyễn Văn Thoại) trải qua chiến trận gian khổ giai đoạn “Gia Long tẩu quốc”… Sau khi nhà Nguyễn thống nhất đất nước, ông nhậm chức trấn thủ trấn Vĩnh Thanh (1817).Tại đây, ông đã thực hiện việc khẩn hoang lập ấp, đào kinh đắp đường, phát triển và bảo vệ vùng đất mới.

Năm 1818 ông vâng lệnh vua cho đào Kênh Thoại Hà nối rạch Đông Xuyên (Long Xuyên) với ngọn Giá Khê (Rạch Giá). Vua Gia Long đã cho phép lấy tên ông để đặt cho tên núi (Thoại Sơn) và tên kênh (Thoại Hà).

Năm 1819 Thoại Ngọc Hầu khởi công đào kênh Vĩnh Tế, sau 5 năm con kênh quan trọng này hoàn thành vào năm 1824. Con kênh nối liền Châu Đốc – Hà Tiên có ý nghĩa quan trọng trong giao thông vận tải và an ninh quốc phòng. Đặc biệt có tác động lớn đến phát triển nông nghiệp vì kênh đưa nước ngọt sông Hậu vào rửa phèn ở vùng đất mặn, tạo điều kiện cho dân chúng đến khai hoang lập ấp, xây dựng xóm làng. Từ đây lại có thêm nhiều gia đình dòng họ từ miền Trung tiếp tục truyền thống mở đất đến định cư ở “vùng đất mới”.

Năm 1823, ông cho lập 5 làng trên bờ kênh Vĩnh Tế. Năm 1825, ông cho đắp con đường từ Châu Đốc lên Lò Gò (tức thị trấn Angkor Borei thuộc Campuchia ngày nay) – Sóc Vinh nối các làng với nhau rất tiện lợi trong việc đi lại của nhân dân. Năm 1826 ông cho đắp lộ Núi Sam–Châu Đốc, dài 5 km. Làm xong, ông cho khắc bia "Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương" dựng tại núi Sam để kỷ niệm. Năm 1828 ông dựng bia Vĩnh Tế sơn, nội dung tế cô hồn những dân binh, đồng thời ông cho thu nhặt và cải táng hài cốt của những người đã mất trong khi đào kênh Vĩnh Tế...

Hiện nay khu mộ ông Thoại Ngọc Hầu và hai người vợ của ông tại chân núi Sam là Di tích lịch sử văn hoá Quốc gia. Nơi đây còn là một vùng văn hoá tâm linh quan trọng của cả Nam bộ, ghi dấu ấn giai đoạn xây dựng và củng cố vùng đất biên cương Tây Nam của tổ quốc.

Văn hóa lưu truyền từ Ngũ Quảng

Nhìn lại lịch sử khẩn hoang mở đất của ông cha ta, việc di dân trên vùng đất mới đã trải qua nhiều vô vàn khó khăn thách thức. Thời Chúa Nguyễn di dân tự do thường xuyên, “dân đi trước chính quyền đi sau”. Qua triều Nguyễn các đợt di dân ngày càng lớn hơn, được nhà nước tổ chức và khuyến khích nên có hiệu quả rõ ràng và nhanh chóng. Trong nửa đầu thế kỷ 19, nhà Nguyễn đã tổ chức bộ máy hành chính đáp ứng kịp thời việc mở rộng lãnh thổ, tổ chức quân đội bảo toàn những thành quả đạt đươc, ổn định cuộc sống của dân ở những vùng đất mới… Trong quá trình này có vai trò quan trọng của lưu dân Ngũ Quảng, cùng với người Hoa và các cư dân bản địa, trong việc thực thi công cuộc khai khẩnphát triển vùng đất mới.

Đi vào miền Nam với công cụ, vũ khí và kinh nghiệm lao động, lưu dân còn mang theo nền văn hóa phong phú. Đờn ca tài tử Nam bộ là một trong những thành tựu có được nhờ kế thừa và phát triển vốn văn hoá lưu truyền từ Ngũ Quảng. Kế thừa từ nhạc lễ, hát bội và một số sinh hoạt âm nhạc khác, đờn ca tài tử mang tính ngẫu hứng sáng tạo, lời ca và nhạc điệu phản ánh nhu cầu của con người ở một không gian văn hóa xã hội mới. Người Nam Bộ luôn coi đờn ca tài tử là một phần quan trọng của đời sống tinh thần, không thể thiếu trong các dịp lễ tết, giỗ chạp, cưới hỏi, hội họp...

Về phương Nam nghe đờn ca tài tử ta được đắm mình trong sự hoài niệm về cội nguồn lắng đọng trong từng bài bản, từng điệu hò giọng ca giản dị chân thành... Và dù đã trải qua hàng trăm năm với những biến thiên lịch sử, vẫn còn đó những đền miếu thờ công thần danh tướng có công mở mang đồng bằng sông Cửu Long, những ngôi đình thờ các vị “tiên hiền hậu hiền” góp sức xây dựng từng làng xóm.

Từ hơn 300 năm trước đến nay bao lớp người từ miền Trung đã ra đi. Đi một ngày đàng... Những “sàng khôn” của thế hệ trước luôn được thế hệ sau tiếp nhận, tích lũy, bồi đắp... góp phần xây dựng đất phương Nam và nhiều vùng miền khác. 

Nguyễn Thị Hậu

https://baoquangnam.vn/ve-phuong-nam-lang-nghe-3139072.html



Di tích Lăng Thoại Ngọc Hầu nằm dưới chân núi Sam, tỉnh An Giang. Ảnh: Ban Quản lý KDL Quốc gia Núi Sam.



Ký ức lũ lụt

Hồi gia đình tôi mới tập kết ra miền Bắc, ở Hà Nội nhà tôi ở khu tập thể bờ sông phía ngoài đê. Dãy nhà cấp 4 vách tre đan trát vữa chia làm...