THIẾU TÌNH YÊU

Hai vợ chồng mất con nhưng không hề có một giây phút nào hình ảnh đứa con trai dễ thương hiện về trong tâm trí họ, không hề có hình ảnh nào họ từng chăm sóc từ lúc nó lúc còn bé bỏng hay khi nó lớn lên, không hề... dù họ đã có nó trong 12 năm!

Họ tìm con như tìm một đồ vật gì đấy mà họ cũng chẳng cần thiết lắm, nhưng không tìm thì không được, đi tìm con cũng là một cơ hội để họ tiếp tục nguyền rủa nhau như bất cứ lúc nào họ cũng làm điều đó! Thực ra hai người này đã mất con từ lâu rồi, từ khi họ không còn là gì, là ai trong mắt nhau! Cho nên, khi họ từ chối cái xác khủng khiếp trong bệnh viện là con trai thì... họ đã nhận đòn trừng phạt của Đức Chúa trời! Aliosa mất tích mãi mãi, Aliosa đang phải chịu những gì còn tệ hơn cái chết ở một nơi nào đó... đó mới là khủng khiếp nhất, sự cảnh báo/cảnh cáo cao nhất mà bộ phim để lại cho người xem!
Một xã hội bất ổn với những tin tức bắn giết, chiến tranh tràn ngập trên truyền thông, quan hệ gia đình không có tình yêu, mà "tình yêu" cũng chỉ là tình dục; một xã hội có những người mẹ coi con cái là món nợ, là gánh nặng, là bằng chứng sự ngu dại của mình, nơi mà tình mẫu tử bị bào mòn, người phụ nữ không còn lòng trắc ẩn ngay với con mình... xã hội ấy rất gần với địa ngục!
Và rồi trong phần đời còn lại của mình, khi sống cùng gia đình mới cũng “thiếu tình yêu”, liệu có khi nào, chỉ một lần, một giây thôi, hình ảnh đứa con trai bất hạnh hiện về trong tâm trí, trong trái tim người đã từng là cha là mẹ? Hình ảnh đầu phim cậu bé cô độc trong rừng cây u ám, cuối phim là những tờ rơi với khuôn mặt cậu bé hiện diện khắp nơi, cô độc giữa sự thờ ơ của mọi người, cô độc trên đường phố, giữa những xa lộ, trên cây, trên cột điện, giữa đêm tối hay trong bão tuyết... đã ám ảnh người xem rất lâu...
Trong phim có Đội tình nguyện tìm người mất tích giống như những "hiệp sĩ đường phố" ở TPHCM, những tổ chức như vậy xuất hiện khi cơ quan nhà nước có chức năng và nhiệm vụ làm việc đó lại quan liêu và vô trách nhiệm - dù được biện hộ bằng nhiều lý do.
***
Tham gia vào trang phim LLNN và sau là KLNN tôi được xem các dòng phim LX/Nga, nhiều thể loại nhiều chủ đề. Bên cạnh dòng phim sử thi, phim chiến tranh hay phim dựng theo các tác phẩm văn học cổ điển trở thành kinh điển của điện ảnh thế giới, nhiều bộ phim thuộc chủ đề tâm lý xã hội – đời sống thời xưa được nhiều người yêu thích và nhớ mãi. Có lẽ vì cuộc sống ở nước ngoài thời đó, nhất là LX – là mơ ước một thời của nhiều người sống ở miền Bắc, vì nói chung phim luôn là “Happy end” dù con người thủ đoạn hay xấu xa thế nào thì về cơ bản xã hội vẫn tốt đẹp. Sự hấp dẫn của phim LX còn vì nghệ sĩ diễn hay, lại đẹp “như Liên Xô” 🙂 Vì vậy, xem lại phim LX thường nhớ về một thời khó khăn, một thời lý tưởng và lãng mạn...
Nhưng khi đã biết nhiều nền điện ảnh khác thì không thể không có sự so sánh, nhất là về nghệ thuật điện ảnh dù nhiều phim Nga có nội dung sâu sắc. Nhưng, với phim ELENA và THIẾU TÌNH YÊU thì với tôi, đây là những bộ phim mang tính hiện đại cả về tâm lý xã hội và nghệ thuật điện ảnh, nhưng vẫn đậm chất Nga, cả về tâm lý con người và bối cảnh xã hội.
Lời cám ơn bao nhiêu với người lập ra trang phim và biên dịch những bộ phim này một cách tuyệt vời cũng là không đủ, nhưng tôi vẫn muốn nhắc lại lần nữa. Xin cám ơn chị Phan Bạch Yến!

Di sản văn hóa trong thành phố mới Thủ Đức

 1.

Vùng đất Thủ Đức có truyền thống lịch sử lâu đời, là vùng ven kề sát đô thành Sài Gòn (như nhiều tỉnh thành ở Nam bộ có huyện Châu Thành kế bên đô thị trung tâm của tỉnh), có thể đến đây bằng nhiều tuyến đường như đường bộ, xe lửa, đường sông... trước 1975 nơi này khá quen thuộc và hấp dẫn đối với dân Sài Gòn.

Trước đây chợ Thủ Đức có món nem nổi tiếng gần xa, trong vùng nhiều chỗ vui chơi giải trí thơ mộng, không quá ồn ào náo nhiệt, phù hợp cho người thành phố đến đây nghỉ ngơi. Lại có sông Sài Gòn và sông Đồng Nai là ranh giới tự nhiên bao quanh tạo nên cảnh quan sông nước độc đáo, vì vậy nơi này hình thành những khu dân cư trù phú, những “làng” biệt thự mát bóng cây xanh, những vườn cây ăn trái, thậm chí còn cả ruộng lúa, kinh rạch nước triều lên xuống mỗi ngày... Môi trường tự nhiên và nhân văn này trở thành một ưu thế của vùng đất này.

Địa thế cao ráo nối tiếp vùng phù sa cổ Đồng Nai, Bình Dương nên Thủ Đức là nơi đã phát hiện những di tích khảo cổ học nổi tiếng như Bến Đò, Hội Sơn, Long Bửu, Gò Cát là dấu tích lớp người đầu tiên có mặt trên vùng đất Đông Nam bộ, niên đại đến khoảng 3.000 năm cách ngày nay. Đây còn là một vùng văn hóa quan trọng của đất Gia Định xưa, có nhiều di tích lăng mộ như khu mộ cổ thời Nguyễn ở Gò Cát, những ngôi chùa, thánh thất, đình miếu... Khu lò gốm cổ Long Trường mới mất đi do quá trình đô thị hóa gần đây.

Có thể kể đến một số di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật ở Thủ Đức đã được xếp hạng quốc gia như: chùa Hội Sơn, chùa Phước Tường, đình Trường Thọ, đình Xuân Hiệp, đình Phong Phú, đình Thần Linh Đông, bót Dây Thép... Ngoài ra còn hàng chục di tích cấp thành phố, trong đó có những ngôi chùa nổi tiếng thường xuyên được rất nhiều người thăm viếng như: chùa Một Cột - Nam thiên nhất trụ, những ngôi đình lâu đời như đình Linh Tây, đình Trường Thọ... Ngày nay những cơ sở tôn giáo tín ngưỡng này như một sự hồi tưởng của cộng đồng về những làng xóm thủa xa xưa đã nhường chỗ cho đô thị phát triển.

Di sản văn hóa trong thành phố mới Thủ Đức
TS. Nguyễn Thị Hậu

Ở vùng đất Nam bộ, theo nhà văn Sơn Nam, đình làng có ý nghĩa rất quan trọng trong bối cảnh lưu dân vào khai phá vùng đất mới: Có xây dựng đình thì làng mới tạo được thế đứng, tăng cường gắn bó vào cộng đồng dân tộc và càn khôn vũ trụ. Bằng không thì “làng” chỉ như lục bình trôi sông, một dạng lưu dân tập thể. Cho nên, người lưu dân lập làng ở đâu dựng đình ở đó. Đình có vai trò “trung tâm” của làng xã, nơi tổ chức các lễ hội và những hoạt động văn hóa – xã hội khác như lễ Cúng thần, lễ Kỳ yên.... Do đó đình làng là “không gian cộng cảm” của cộng đồng có những ký ức chung, những sinh hoạt thực hành tín ngưỡng, văn hóa chung. Sự hiện diện của những ngôi đình với tuổi đời cổ xưa và mật độ khá cao cho biết lịch sử tụ cư và phát triển lâu dài của vùng đất Thủ Đức.

2.

Thành phố mới Thủ Đức thuộc TP.HCM được thành lập trên cơ sở nhập toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của quận 2, quận 9 và quận Thủ Đức. Nhìn trên bản đồ, thành phố Thủ Đức nằm giữa một vùng đô thị - công nghiệp lớn ở miền Đông Nam bộ: TP.HCM – Biên Hòa, Long Thành (Đồng Nai) – Dĩ An, Thuận An, Thủ Dầu Một (Bình Dương). Chính vì vậy với vai trò “Đô thị sáng tạo phía Đông” TP.HCM, thành phố Thủ Đức dự kiến được quy hoạch chia thành 6 khu chức năng chính, nhiệm vụ hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Đây là một thành phố đa chức năng với các trụ cột có sẵn là: khu công nghệ cao quận 9; Đại học Quốc gia TP.HCM và khu đô thị mới Thủ Thiêm.

Như vậy, ngoài dân số tự nhiên hiện nay là 1,1 triệu người, dân số của thành phố Thủ Đức sẽ tăng cơ học một cách nhanh chóng (dự kiến đến năm 2030 dân số Thủ Đức đạt 1,5 triệu và năm 2060 là 3 triệu người), nhằm cung cấp và đáp ứng nguồn nhân lực cho sự hình thành và phát triển các phân khu chức năng với hàng chục ngành nghề và hàng trăm cơ sở nghiên cứu, sản xuất sẽ mọc lên. Do đó việc quy hoạch và thực hiện xây dựng phát triển thành phố mới có hàng loạt giải pháp, bao gồm quy hoạch không gian đô thị, quy hoạch kinh tế - xã hội; quản lý đất đai, tài sản đô thị; đầu tư và thu hút đầu tư; xây dựng cơ sở hạ tầng, hạ tầng số và chuyển đổi số... Tất cả những giải pháp đó chắc chắn sẽ tác động trực tiếp đến hệ thống di sản văn hóa vật thể là những công trình di tích và cảnh quan nhân văn, cảnh quan sông nước độc đáo.

Kinh nghiệm và bài học đau xót của quá trình đô thị hóa bán đảo Thủ Thiêm còn đó: phương thức giải tỏa trắng giao đất sạch cho nhà đầu tư đã làm cho hàng loạt đình, chùa, làng xóm lâu đời biến mất; một vùng lịch sử lâu đời sẽ trở thành khu đô thị hiện đại mà vô hồn như mọc lên từ hoang mạc. Kênh rạch sông nước bị lấp đi, thay đổi cảnh quan tự nhiên trong khi biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt. Ven sông nhà cao tầng mọc lên, không gian thiên nhiên trở thành “tài sản” của một bộ phận dân cư khá giả.

3.

Chính vì vậy, việc khảo sát, đánh giá và lập dự án bảo vệ, bảo tồn hệ thống di tích lịch sử - văn hóa của thành phố mới Thủ Đức cần được thực hiện khẩn trương, nghiêm túc và khoa học, đưa kết quả vào quy hoạch chung để có thể kết hợp xây dựng các công trình mới trên cơ sở tôn trọng và bảo tồn di tích lịch sử. Đặc biệt là các khu vực chứa đựng dưới lòng đất dấu tích khảo cổ học. Cùng với đó là việc bảo vệ cảnh quan ven sông Đồng Nai, sông Sài Gòn và một số sông rạch khác, để có thể tạo ra những không gian công cộng, nơi nghỉ ngơi, vui chơi của cộng đồng, xây dựng không gian văn hóa của thành phố mới.

Trong thành phố mới Thủ Đức những công trình văn hóa như đình, chùa, nhà thờ, thánh thất… những “làng” biệt thự ở nơi chốn cũ là gạch nối quá khứ và tương lai. Thành phố mới không xa lạ đối với cộng đồng cư dân lâu đời Thủ Đức, Thủ Thiêm. Đổi lại, việc gìn giữ những di sản văn hóa ở đô thị mới sẽ nuôi dưỡng ký ức lịch sử của vùng đất này, mang lại cho những cư dân mới cảm giác thân thiện, sự gắn bó và thái độ quý trọng một nơi chốn có quá khứ lâu dài. Những dấu tích lịch sử - văn hóa chính là sợi dây nối liền các cộng đồng dân cư qua các giai đoạn phát triển. Từ đó và nhờ đó, vị thế thành phố mới được nâng cao nhờ giá trị về văn hóa, bên cạnh giá trị từ kinh tế.

Việc địa danh Thủ Đức trở thành tên của thành phố mới có ý nghĩa quan trọng: gìn giữ một di sản vănhóa phi vật thể, bởi đây là địa danh lâu đời, quen thuộc và có giá trị lịch sửđối với vùng đất Gia Định xưa. Cũng vì vậy xin đừng xóa bỏ tên những kinh rạch, bến đò, những địa danh hành chính đã có từ xa xưa (như tên các phường)... Địa danh dân gian được lưu giữ và di truyền qua nhiều thế hệ, giúpnhận ra đặc trưng văn hóa, thể hiện tâm thức lối sống cư dân của vùngđất đó… góp phần làm nên lịch sử của thành phố mới Thủ Đức, cũng là một phần của Sài Gòn – TP.HCM. 

Nguyễn Thị Hậu



 THÁNG HAI, KHÔNG AI QUÊN!

Nguyễn Thị Hậu
1. Tháng Hai thường là tháng Giêng âm lịch, xuân đã về nhưng giá rét ngày đông chưa bớt. Trên vùng cao đào mận bắt đầu nhú lộc xanh non giữa sương mù bên những hàng rào đá dọc con đường cheo leo ngoằn nghèo dốc đứng. Năm nào cũng vậy, tháng hai đến những ký ức nóng bỏng của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 1979 lại tràn về trong trái tim trong trí óc mỗi chúng ta...
Những năm 1977 - 1978 chúng tôi đang học đại học. Khi cả nước còn đang ngổn ngang khó khăn sau cuộc chiến 30 năm thì ở phía nam đã có nhiều đợt nhập ngũ cho chiến trường biên giới Tây Nam. Bất ngờ, ngày 17/2/1979 một “sự phản bội ghê tởm nhất lịch sử” đã xảy ra: Trung quốc tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam. Mượn bày tay kẻ khác dùng dao rựa dùng cán cuốc gậy gộc giết người Việt chưa thỏa, TQ đã trực tiếp gây chiến giết hại hàng trăm ngàn thường dân Việt Nam, hàng chục ngàn người lính Việt đã ngã xuống trong cuộc chiến anh dũng bảo vệ biên cương... Máu đã đổ trong những ngày tháng hai 1979 và kéo dài nhiều năm sau đó...
Và từ đó, là người Việt Nam không ai quên tháng Hai. Cũng từ đó người Việt đã biết về Hoàng Sa tháng 1.1974 và Gạc Ma tháng 3.1988 và cũng sẽ không bao giờ quên!
2. Cuối năm 2011 tôi nhận được tin nhắn từ gia đình bạn học cùng thời phổ thông đã hy sinh vào tháng hai 1979 “đơn vị của nó đã cùng về nghĩa trang Vị Xuyên (Hà Giang), con có dịp ra Bắc thì lên thăm nó... ”. Đúng ngày 17 tháng Hai 2012 tôi đã đến đây. Nghĩa trang vắng lạnh, chỉ có vài vòng hoa đã không còn tươi, nhang khói lơ thơ vài ngôi mộ. Từ rất nhiều năm trước không hiểu vì sao vào ngày này đến một vòng hoa một nén nhang cho nơi đây cũng không thể! Nước mắt chúng tôi tràn ra... Chúng tôi cùng vài người khách viếng nghĩa trang lặng lẽ đi đến từng ngôi mộ thắp một nén nhang tạ lỗi với các anh...
Chỉ đến gần đây một số nghĩa trang của chiến tranh biên giới phía Bắc mới được ấm áp khói nhang vào ngày 17.2, ngày 27.7 hay lễ tết, quốc khánh... Nhưng nhân dân thì luôn nhớ đến những người đã hy sinh, đã đổ máu xương bảo vệ đất nước. Tháng Hai, trên mạng xã hội là hình ảnh những bông hoa sim, những chuyến xe với những gương mặt trẻ măng đi lên biên giới phía Bắc, và bài hát “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới” và nhiều bài hát khác lại vang lên...
Bốn mươi năm đã qua, hẳn những người đã ngã xuống luôn cảm thấy rất ấm áp vì họ mãi sống trong trái tim trong tấm lòng người dân... Còn hơn có những người được chôn trong nghĩa trang cao cấp hay khu mộ hoành tráng mà lạnh lẽo muôn kiếp vì không bao giờ được nhân dân nhớ đến.
3. Từ năm 2019, sau 40 năm xảy ra cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, truyền thông đã được đăng nhiều loạt bài về sự kiện này: chứng tích tội ác, diễn biến những trận chiến, ký ức những con người tham gia cuộc chiến... Nhưng đáng tiếc là còn thiếu vắng những công bố chính thức về hồ sơ, tài liệu lịch sử và công trình nghiên cứu về giai đoạn và sự kiện này và cả những gì liên quan còn trong vòng bí mật “hư hư thực thực”, như sự kiện Hội nghị Thành Đô 1990, chẳng hạn.
Với người “láng giềng” có truyền thống bành trướng và xâm lược, chừng nào lịch sử chưa được công khai minh bạch thì chừng đó chúng ta còn phải đối phó với nguy cơ chiến tranh và tội ác như cuộc chiến 1979!
(bài viết tháng 2.2019, có bổ sung)
@ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA CÁC CUỘC CHIẾN TRANH BẢO VỆ BIÊN GIỚI, HẢI ĐẢO VÀ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA THỜI HIỆN ĐẠI do Hội KHLSVN tổ chức tại HN ngày 9/3/2014.
Đây là ý kiến của tôi trong cuộc tọa đàm và vài HT sau đó (repost)
1. Về sử liệu:
Cần công bố những tư liệu, tài liệu lịch sử có liên quan đến các cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc ở biên giới Tây Nam, Tây Bắc và biển Đông. Hiện nay tình trạng tư liệu lịch sử không được công bố làm cho việc nghiên cứu rất khó khăn. Những tư liệu tài liệu chữ viết nào đã đến thời hạn “giải mã” thì cần “bạch hoá” và tập trung tại các cơ quan có chức năng nghiên cứu lịch sử, như Viện Sử học, Viện Lịch sử quân sự, Viện Hán Nôm. Đặc biệt Viện Hán Nôm phải là nơi lưu trữ các văn bản gốc thời Nguyễn liên quan đến quản lý, khai thác và bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa. Việc chuyển tài liệu cho các cơ quan khoa học là để hiện nay nghiên cứu, công bố, đồng thời cũng để đời sau tiếp tục nghiên cứu. Tránh tình trạng tài liệu bị thất lạc, biến mất hay “tam sao thất bản”, như vậy không thể nào viết lại lịch sử một cách khách quan và khoa học được. Những cơ quan khác, khi cần, có thể sử dụng bản sao.
2. Về việc đưa nội dung này vào sách giáo khoa:
Chắc chắn phải đưa vào, nhưng đưa vào như thế nào, đến đâu… tôi nghĩ sẽ là một quá trình không ngắn. Trước mắt để giáo dục con em về sự toàn vẹn lãnh thổ, tôi đề nghị một việc mà Hội Sử VIỆT NAM, các hội địa phương đều có thể phối hợp cùng ngành giáo dục làm được. Đó là trang bị cho mội lớp học một tấm bản đồ VIỆT NAM có đầy đủ đường biên giới hiện nay, đầy đủ các đảo và quần đảo HS-TS. Mỗi trường phổ thông cần có một bộ bản đồ VIỆT NAM từ thời NGuyễn đến nay minh chứng tính thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ VIỆT NAM. Giáo dục trực quan, hàng ngày như thế sẽ làm cho học sinh ý thức ngay từ nhỏ việc bảo vệ chủ quyền tổ quốc.
3. Cần thành lập một cơ quan nghiên cứu Biển Đông:
Về tất cả các lĩnh vực địa chất địa lý, tài nguyên môi trường, kinh tế, văn hoá… nhằm tránh sự manh mún, tản mạn và khó liên kết giữa các ngành trong mục tiêu cùng nghiên cứu biển Đông. Nếu chưa thể thành lập cơ quan nghiên cứu cấp Trung Ương thì nên thành lập tại 1 tỉnh duyên hải, như Đà Nẵng, để nơi đây là cơ quan tập hợp và có tiếng nói khoa học chính thức. Hiện nay các cơ quan khoa học có rất ít thông tin trên mạng về lịch sử, tình hình biển Đông, trong khi đó TQ có hàng chục cơ quan nghiên cứu biển Nam hải, họ công bố dồn dập tài liệu, thật giả ta không thể biết. Trong khi đó ta chậm công bố và ít công bố tài liệu liên quan. Chưa kể việc ta đưa rất ít nhà khoa học đi dự HT quốc tế về vấn đề này.
4. Cần có chính sách rõ ràng và nhất quán về truyền thông các vấn đề liên quan đến lịch sử vùng biên giới và biển Đông. Đành rằng về ngoại giao thì nhà nước không thể hay chưa thể nói, nếu các báo, đài chính thống chưa được nói thì nên để các hội , đoàn lên tiếng. Nhà nước "tế nhị" về ngoại giao nhưng cần sòng phẳng và minh bạch với nhân dân vì nhân dân là người giữ nước, một mình chính quyền không thể giữ nước. Mặt khác, để nhân dân lên tiếng về việc này là thể hiện sức mạnh. Khi chúng ta có chính kiến rõ ràng thì sẽ tạo nên sự sức mạnh đoàn kết của cả người Việt trong và ngoài nước.
5. Việc trước mắt là cần có ngay một BẢO TÀNG về chiến tranh bảo vệ biên giới, hải đảo và chủ quyền quốc gia thời hiện đại, ngay khi còn lưu giữ, sưu tầm những di vật, tài liệu... Có thể việc “giải mã, minh bạch” nhiều tài liệu văn bản phải cần thêm thời gian, nhưng nếu không được lưu giữ, bảo quản khoa học thì dễ thất lạc, mất mát. Thậm chí sẽ không bao giờ được minh bạch, công khai. Việc này phải đặc biệt khẩn trương tiến hành khi nhiều nhân chứng của các cuộc chiến tranh này còn sống. Tương lai thuộc về người trẻ - đương nhiên. Nhưng quá khứ của những người già hôm nay cũng sẽ là quá khứ của những người trẻ, bây giờ và mai sau. Hôm nay ta ứng xử tử tế với quá khứ thì ngày mai con cháu cũng vậy.

Cột cờ Lũng Cú, Hà Giang, Cột mốc biên giới Bát Xát - Lào Cai "nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt" (hình của tôi) và Cột mốc chủ quyền quần đảo Trường Sa (Hình: internet)








@ HẾT TẾT!

 Thật ra cảm giác “tết” chỉ thực sự từ 23 tháng chạp đến ngày Mùng Một. Đấy là thời gian bận rộn năm nào cũng vẫn những việc ấy, nhưng vẫn thấy nôn nao... Cảm giác như chạy đuổi theo những ngày cuối của một năm, thời gian thì vẫn thế mà sao làm gì cũng thấy mình quá chậm...

Tết năm nay TPHCM trong không khí căng thẳng của dịch cúm tàu, hơi khác năm ngoái vì TP là nơi trực tiếp có “ổ dịch”. Nhiều người không về quê nên thành phố đông hơn mọi năm, trừ chiều tối ba mươi đường phố còn vắng chút, từ sáng mùng Một đã tấp nập người xe như những ngày thứ bảy, chủ nhật... Chợ búa vẫn đông vẫn đắt, rau trái thịt thà không thiếu... Bữa 29 tết đi qua cửa hàng thực phẩm HN thấy có bán mùi già và cả hoa violet, thược dược, tính mua nhưng đắt quá: nắm mùi bé tẹo mấy chục ngàn, violet 50k /2 cành hoa lơ thơ, thược dược 18k/bông! Thôi, nhớ thì nhớ nhưng cái ví nó không cho nhớ, đành chịu 🙂 Hai con gái mua về hai giỏ cúc kim cương và hai giỏ mào gà để trước cửa, trong nhà có cành đào to đẹp từ em Quốc An, vậy là Tết rồi.
Như mọi năm, sáng ba mươi ở nhà cúng cơm rước ông bà, chiều Ba mươi về nhà má cúng cơm ba, anh Hai và ông bà nội ngoại. Cả năm gia đình chỉ có vài ngày đông đủ trong bữa cơm nên ai cũng về sớm, mỗi người một tay phụ chị Hai cùng lo mâm cơm cúng. Năm nay má yếu nhiều, chị Hai cũng không khỏe nên không bày biện gì, vậy mà cũng đầy một bàn đủ món ngày Tết. Má hay nói “má còn sống đây thì còn cúng kiếng, má mất rồi các con lo sao thì lo...”, ý là sợ ba chị em không biết việc cúng giỗ! Chời, bà chị em đều U70 rồi, có dâu có rể, cháu nội cháu ngoại rồi... Không giỏi như má nhưng chắc chắn biết nề nếp gia đình, con cháu cũng chỉ có mấy đứa, ngày giỗ ngày tết là ngày anh em con cháu ruột thịt gặp nhau, sao mà bỏ giỗ quảy cúng tết được!
Cũng do dịch bệnh nên mùng Một không có khách và bà con đến chơi như mọi năm, “nhà ai nấy ở” để giãn cách cho cẩn thận. Nhưng mẹ con mình và con cháu vẫn về chúc mừng tuổi má, để được má lì xì, chời, bà già lo bỏ phong bao từ mấy ngày trước, cứ cho vô bỏ ra đếm đi đếm lại mấy lần, sợ quên sợ sót đứa nào, thương quá...
Trưa mùng Một mẹ con Sam Sam về nhà, nấu nồi nước lá mùi già mà em Hạnh Nguyên mang từ HN vào biếu, cho Sam tắm gội đầu năm, nàng thích lắm, cứ nói “thơm, thơm”. Bố Sam phải trực/cấm trại trong sân bay từ hôm 23 tháng chạp chưa biết bữa nào mới được về nhà? Như mọi năm chiều mùng Hai ông bà nội Sam xuống nhà ăn cơm. Bữa cơm của hai gia đình chỉ thiếu một người mà cũng thấy vắng...
Mùng Ba, đi chợ mua đồ nấu cơm cúng, thay bình bông mới trên bàn thờ, hóa vàng... Bánh chưng còn hai cặp cất vào tủ lạnh. Hết tết. Mừng nhất là thức ăn ngày nào hết ngày đó, không phải hâm đi nấu lại, không đầy một tủ lạnh đồ ăn dư 🙂
Chưa biết những ngày sắp tới sẽ thế nào nhưng trên FB tràn ngập lời chúc Năm mới Bình An. Trong một thế giới mà sự bất thường đang trở thành bình thường thì mọi người mới thấy quý trọng hơn những ngày bình an!
Mùng Bốn. Bắt tay làm việc thôi, bao nhiêu công việc đang chờ! Một năm sẽ trôi qua rất nhanh, nhất là khi ta ở vào tuổi ngoài 60 🙂

TÀU LÁ CHUỐI và NHỮNG TẾT XA QUÊ

Gia đình tôi là người miền Nam tập kết ra Bắc. Từ 1954 đến năm 1975 trở về quê hương đồng bằng sông Cửu Long chúng tôi đã có 21 cái Tết xa ngôi nhà của ông bà nội ngoại. Vậy nhưng trong những năm ấy dù ở Hà Nội hay nơi sơ tán thì ngày Tết của gia đình tôi bao giờ cũng thấm đẫm hương vị Tết Nam bộ. Hương vị ấy có một đặc trưng rất riêng, ấy là mùi bánh tét gói bằng lá chuối.

Những năm sống trên đất Bắc ba tôi thường ăn Tết xa nhà, cùng đoàn Cải lương Nam bộ ông đi khắp nơi biểu diễn phục vụ đồng bào, chiến sĩ. Vì vậy ngày Tết thường chỉ có mấy mẹ con tôi cùng láng giềng trong khu tập thể, phần lớn các gia đình cũng đều vắng đàn ông. Nhưng nếu Tết nào ba tôi không đi xa thì nhà tôi như “câu lạc bộ Thống nhất”, nhiều chú bác tập kết ghé về đây ăn Tết vì chắc chắn sẽ có bánh tét, thịt kho tàu, dưa giá củ kiệu và nhiều món ăn Nam bộ khác.
Năm nào cũng vậy, từ khoảng rằm tháng chạp má tôi đã hỏi thăm nơi nào bán lá chuối, rồi mấy ngày sau đó dù mưa phùn lạnh thấu xương bà cũng đạp xe đi các chợ tìm mua chuẩn bị cho việc gói bánh tét. Nhưng người ta thường bán lá chuối đã rọc, vì vậy bà phải dặn trước mới mua được mấy bó lá chuối còn nguyên cả tàu lá. Má tôi rọc tàu lá cẩn thận để không bị rách, cọng chuối thì bà chẻ ra thành những sợi dây, buộc thành bó gọn gàng. Nếu trời hửng nắng, buổi trưa bà tranh thủ mang lá và dây chuối ra phơi cho hơi héo. Còn nếu vẫn mưa phùn gió bấc thì trước khi gói bánh bà tự tay hơ lá và dây trên bếp lửa gần tàn. Bà không để ai làm việc này vì nếu hơ không khéo, lá bị héo gói bánh không đẹp, dây bị giòn hoặc không đủ dai, khi “cột” bánh sẽ đứt. Hơ dây xong bà khéo léo buộc đầu hai sợi với nhau để đủ độ dài cột bánh nhiều vòng cho chặt.
Tôi hỏi: Sao má không cột bánh tét bằng lạt người ta bán sẵn ở chợ? – Vì lạt dễ làm rách lá chuối. Bánh chưng gói bằng lá dong thì mới buộc bằng lạt được. Lá chuối dễ rách nên sau khi hơ lửa, má tôi không rửa mà dùng mấy chiếc khăn mềm, nhúng nước vừa đủ ẩm, nhẹ nhàng lau mấy lần cho thật sạch. Sau đó xé thành những miếng lá to nhỏ khác nhau, xếp vào thành từng xấp. Gói bánh tét không có khuôn, một “đòn” bánh tét cần khoảng 5,6 miếng lá lớn và 4 miếng nhỏ để bọc hai đầu, chừng chục sợi dây cột chặt. Dây vụn lá vụn và những miếng lá xấu thì xếp vào đáy nồi luộc bánh.
Có năm má tôi còn gói cả bánh ít cũng bằng lá chuối. Gói bánh ít thì miếng lá chuối bên trong được cắt nhỏ vừa đủ quấn thành hình phễu, khi “bắt bánh” (đặt cục bột đã nặn nhân và xoa một ít mỡ cho khỏi dính) vào trong “phễu” lá gói lại theo hình tháp thì lá không rách, bột không bị chảy khi hấp bánh. Miếng lá ngoài còn tươi màu xanh mướt, gói bẻ góc làm thành chiếc bánh có hình tam giác cân gọn gàng, không cần cột dây mà khi hấp chín vẫn không bị bung ra.
Lá chuối còn được dùng khi nặn nhân bánh tét. Nồi đậu xanh nấu chín đánh nhuyễn để hơi se se, má tôi dùng muôi múc ra đổ trên miếng lá chuối, dàn thành hình gần chữ nhật mỏng đều chừng gần đốt tay. Mỡ lợn đã ướp chút muối, đường, nếu được phơi nắng thì miếng mỡ trong veo, cắt thành từng miếng dài gần gang tay, dày khoảng đốt ngón tay, đặt vào giữa dọc theo miếng đậu xanh. Cầm hai bên miếng lá chuối nhanh tay úp lại và nhẹ nhàng lăn cho nhân tròn đều, chỉ phút chốc nhân bánh tét đã thành hình trụ tròn, cục mỡ nằm chính giữa. Lúc này đậu xanh cũng đã nguội nên từ từ nhấc ra đặt lên cái đĩa lớn cũng lót lá chuối cho khỏi dính.
Đậu xanh chín thơm phức quyện với mùi lá chuối hấp dẫn vô cùng! Hấp dẫn hơn là sau khi nặn nhân bánh tét xong, má vét đậu xanh hơi xém ở đáy nồi, cho vào miếng lá chuối ấy và nắm lại cho tôi ăn, chao ôi là ngon!
Nhà tôi thường nấu bánh tét trong cái thùng tôn, bình thường dùng đựng đồ ít dùng đến, như một cái “kho” nhỏ ở góc nhà. Sáng ngày 29 Tết anh Hai tôi lấy ra cọ rửa sạch sẽ, sắp sẵn mấy cục gạch lớn thành cái bếp trước cửa nhà, chẻ đống củi đã mua từ vài tháng trước. Buổi chiều mấy má con vo gạo nấu đậu, tối bắt đầu gói bánh. Đến khuya là có thể nổi lửa nấu bánh. Bánh tét nhỏ hơn bánh chưng và xếp vào nồi cũng khác, khi bánh chín lấy ra không phải ép cối đá như bánh chưng mà lại treo lên cho bánh chắc lại. Vì vậy nhà tôi không nấu bánh chung với nhà ai được. Hơi nước sôi mang theo mùi bánh mùi lá chuối thơm ngọt ngào làm cho đêm đông ấm hơn và ngắn hơn. Sáng sớm 30 Tết đã có thể vớt ra những đòn bánh no tròn bốc hơi nghi ngút.
Những năm đi sơ tán về miền quê Sơn Tây mạn gần Phú Thọ, nhà nào cũng trồng chuối nên má tôi chỉ cần hỏi xin là được cả ôm những tàu chuối to và đẹp, thoải mái rọc lá xé lá mà không lo bị thiếu. Tôi còn nhớ mãi những lần má tôi gói bánh tét ở nơi sơ tán, bà con ở đó rất ngạc nhiên hỏi “vì sao bác ở miền Nam mà lại biết gói cái bánh tày quê cháu?”. Bà trả lời “tôi cũng chỉ biết ông bà dạy sao thì làm theo vậy”. Má tôi cũng ngạc nhiên không kém khi thấy những cái “bánh chưng tày” tròn dài như đòn bánh tét, chỉ khác là nhân bằng đậu xanh không đồ chín và không có cục mỡ, như vậy để được lâu hơn, bác chủ nhà nói vậy. Nhưng bánh tày để người trong nhà ăn, không để lên bàn thờ mà chỉ cúng bánh chưng vuông.
Sự giống nhau của bánh tày và bánh tét do cùng nguồn gốc hay do hiện tượng đồng quy văn hóa thì cũng mang lại nhiều điều thú vị. Nghiên cứu lịch sử tôi nhận thấy cần tìm hiểu thêm những hiện tượng văn hóa như thế, vì nó sẽ cho biết nhiều “sự thật” mà sử học bỏ qua không ghi chép hoặc không chú ý.
Từ khi về Sài Gòn má tôi vẫn gói bánh tét bánh ít “để tết nhất con cháu biết mà làm”. Nhưng vài năm nay má tôi không được khỏe nên nhà tôi không gói bánh tét nữa, dù hai chị em tôi gói bánh thành thạo, các con gái biết cột bánh rất khéo, vì cứ bàn việc gói bánh tét là bà lại lo lắng đủ chuyện đến mất ngủ, như ở thời bao cấp ngày xưa...
Bây giờ ít nhà tự gói bánh vì có nhiều dịch vụ tiện lợi, ăn uống no đủ hơn nên bánh chưng bánh tét giò chả đâu còn là đặc biệt dù ngày Tết vẫn không thể thiếu. Mà Sài Gòn cũng chỉ còn vài nơi bán lá dong lá chuối hay lạt tre, còn dây bằng cọng chuối thì hầu như không còn nhìn thấy... Vậy mà mỗi khi Tết gần kề tôi vẫn hay đi chợ tìm nơi bán lá chuối, mua một xấp lá về để trong bếp cho thấy lại cái mùi Tết hồi những năm còn xa quê...

VÌ TA LÀ NGƯỜI SÀI GÒN

 Tùy bút, Nguyễn Thị Hậu


1. Từ năm 1975 đến nay thành phố Hồ Chí Minh hướng đến mục tiêu phát triển cơ bản là xây dựng thành phố có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình; có vai trò động lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; sớm trở thành một trong những trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ của khu vực Đông Nam Á. Để thực hiện mục tiêu ấy, quá trình đô thị hoá - hiện đại hóa đã diễn ra nhanh chóng và trên quy mô lớn, mang lại nhiều thay đổi đáng kể về diện mạo đô thị cũng như đời sống dân cư. Có thể nhận diện quá trình đô thị hóa – hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh bằng các biểu hiện cơ bản sau.

Những công trình xây dựng hiện đại mọc lên nhanh chóng và dày đặc từ trung tâm đến ngoại ô thành phố. Đó là những trung tâm thương mại, chung cư cao tầng, các khu đô thị mới lớn nhỏ cảnh quan không thua kém nước ngoài, các khu công nghiệp – khu chế xuất kỹ thuật cao... Đặc biệt là việc xây dựng hạ tầng như đường giao thông, cầu cống, nạo vét những kênh rạch quan trọng.

Quá trình chuyển dịch dân cư (tăng dân số cơ học) từ nơi khác đến TP. Hồ Chí Minh liên tục và ngày càng nhiều. Nguồn gốc, trình độ học vấn, cơ hội nghề nghiệp... của người nhập cư không đồng đều và rất đa dạng, hình thành những “cộng đồng” nhỏ trong đô thị. Họ tập hợp và cư trú theo quê hương, nghề nghiệp, theo khả năng kinh tế... trong từng khu vực có điều kiện sống (nhà ở, hạ tầng, dịch vụ, an sinh...) khác nhau.

Sự chuyển đổi đời sống xã hội với lượng dân cư mới tăng nhanh đã làm cho lối sống ở thành phố còn nhiều hiện tượng chưa văn minh, nhất là việc thực hiện và tuân thủ những luật lệ, quy tắc của đô thị như giao tiếp ứng xử, giao thông, quan hệ với cộng đồng trong môi trường sống (ô nhiễm môi trường về khí thải, rác thải, tiếng ồn...).

Theo một số tài liệu, bình quân mỗi năm TP.HCM tăng thêm khoảng 200.000 dân có đăng ký chính thức (từ năm 2012-2016 tăng 850.000 dân), trong đó 2/3 là dân nhập cư từ nơi khác đến. Dự báo đến năm 2025 dân số sẽ lên hơn 10 triệu dân, đến giữa thế kỷ XXI có thể lên đến 15 triệu dân. Ngoài ra, số lượng người vãng lai và lao động thời vụ ở TP.HCM cũng không nhỏ, dao động từ 1-2 triệu người, có thời điểm còn nhiều hơn. Mới đây theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm tháng 4.2019 thì dân số thành phố là 8.993.082 người, đông dân nhất cả nước và chiếm 50% dân số vùng Đông Nam bộ. Sau 10 năm (2009 – 2019) quy mô dân số của TPHCM đã tăng thêm 1,8 triệu người; tốc độ tăng dân số bình quân là 2,28%/năm, bình quân một năm tăng khoảng 183 ngàn người, gần bằng dân số của một quận quy mô nhỏ của thành phố.

Bên cạnh đó, việc TP.HCM đóng góp vào ngân sách quốc gia tăng từ 26,5% trong giai đoạn 2001 - 2010 và tăng lên 27,5% trong giai đoạn 2011 – 2019 là có một phần đóng góp không nhỏ của người nhập cư. Tuy nhiên, tỷ lệ ngân sách TP.HCM được giữ lại từ 33% (năm 2000) đã giảm còn 18% (giai đoạn 2017 - 2020) là một trong những nguyên nhân làm giảm mức tăng trưởng kinh tế của TP.Hồ Chí Minh, tăng thêm những khó khăn trong việc giải quyết hạ tầng và chăm lo về an sinh xã hội cho người dân – cũng có một phần không nhỏ là người nhập cư. Đây là một “mâu thuẫn” lớn mà TP. Hồ Chí Minh luôn phải đối diện trong quá trình phát triển của mình.

Có thể nhận thấy cơ hội tìm việc làm và kiếm tiền ở TP.Hồ Chí Minh ngày càng nhiều nhưng cũng càng khó khăn, giá cả sinh hoạt lại cao hơn các đô thị lớn của Việt Nam. Nhưng vì sao số lượng người nhập cư đến đây ngày càng nhiều và tỷ lệ tạm trú lâu dài rồi trở thành “người thành phố” cũng tăng lên không ngừng? “Vì ở Sài Gòn dễ sống”. Đó là câu trả lời của nhiều người.

 

2. Tôi có những người bạn Sài Gòn quê hương của họ ở nhiều tỉnh thành khác. Phần lớn họ có mặt ở thành phố này từ sau năm 1975 cũng như tôi, nhưng không biết từ khi nào các bạn tôi đều coi mình là “người Sài Gòn”, họ yêu Sài Gòn một cách tự nhiên và gắn bó không kém tình cảm đối với quê hương bản quán, bởi vì đây là nơi họ và gia đình từ quê nhà vào kiếm sống và được Sài Gòn rộng rãi sẻ chia mọi cơ hội.

Ngược dòng lịch sử, giai đoạn hình thành Bến Nghé – Sài Gòn cũng là giai đọan tụ cư nhanh chóng của những cộng đồng người từ nhiều nơi, nhiều nguồn gốc đến đây. Quá trình khẩn hoang lập ấp, phát triển sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp… lưu dân đã duy trì những phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của quê hương làm chỗ dựa tinh thần ở vùng đất mới. Lưu dân chia sẻ và nương nhờ với nhau trên vùng đất còn nhiều lạ lẫm, học hỏi cộng đồng bản địa trong canh tác trồng trọt, phát triển các nghề thủ công và buôn bán, dần dần tạo dựng một vùng “đất lành chim đậu” nức tiếng gần xa... Thế kỷ XX chiến tranh liên miên, Sài Gòn là nơi người dân các vùng chiến sự ác liệt từ miền Trung đổ về, từ miền Tây chạy lên... Sài Gòn lúc nào cũng là nơi có thể dung chứa những con người đến đây vì khó khăn túng quẫn, cũng là nơi những con người tài trí có thể thử sức để làm giàu, để phát triển tài năng.

Các đô thị lớn luôn là “chỗ trũng” để dòng chảy nhập cư, di cư đổ về. Hai nguyên nhân chính của hiện tượng di cư kinh tế (nhiều cơ hội có việc làm và việc làm ổn định;  dễ kiếm tiền và có cơ hội cho thu nhập cao, khả năng có việc làm, dễ dàng thay đổi công việc,  mức độ thu nhập…) và phi kinh tế (chất lượng cuộc sống, bao gồm hệ thống giáo dục, y tế, dịch vụ phát triển, các phương tiện giao thông, phương tiện thông tin đại chúng hiện đại,  nhiều cơ hội và điều kiện để phát triển khả năng cá nhân...). Tình trạng nhập cư ở TP. Hồ Chí Minh cho thấy hai nguyên nhân này không tách rời mà luôn đan xen với nhau. Từ nguyên nhân kinh tế kéo theo nguyên nhân phi kinh tế: nhu cầu và khả năng tập hợp gia đình, tương lai học hành của con em, rồi khi gia đình ra thành phố lại có thêm nhu cầu việc làm, cư trú. “Người đi trước rước người đi sau” cũng như vài trăm năm trước lưu dân Ngũ Quảng đi vào khai khẩn vùng đất Nam bộ...

“Sài Gòn dễ sống”, vì mỗi ngày nếu chịu khó thì ít nhiều gì cũng kiếm được tiền, vì khí hậu điều hòa quanh năm nên chỉ cần một ở đơn giản là tạm ổn. Dễ sống do mối quan hệ giữa người với người trong làm ăn buôn bán, trong sinh hoạt khá thoải mái dễ chịu. Ở Sài Gòn hầu như không có sự phân biệt hay định kiến với người nhập cư, vì vậy phần lớn những người đến đây làm ăn sinh sống khi có điều kiện cũng sẵn sàng giúp đỡ người khác như một lẽ tự nhiên. Sài Gòn dễ sống còn vì ở đây văn hóa vùng miền (nhất là ngôn ngữ và ẩm thực) được tồn tại và phát triển rộng rãi ngoài xã hội, đồng thời nền nếp lối sống được gìn giữ trong gia đình, không gặp phải sự kỳ thị hay xu hướng bị “đồng hóa”.

Người Sài Gòn dễ đồng cảm với hoàn cảnh khó khăn của phần lớn người di cư/nhập cư. Năm 2017 “chiến dịch giải tỏa vỉa hè” ở quận I đã gây ra những ý kiến trái chiều trong dư luận xã hội. Tuy có mục đích tốt nhưng cách thực hiện chiến dịch hoàn toàn không phù hợp, vì vậy gây ra ấn tượng xấu vì nhiều hành vi thiếu nhân văn đối với những số phận khó khăn phải kiếm sống nhờ vỉa hè, lề đường. Hay như gần đây là phản ứng của cộng đồng được phản ánh qua báo chí, về việc coi những người bán hàng rong tại TP.HCM là "ký sinh trùng". Theo đó, nhiều ý kiến cho rằng "người bán hàng rong tự lao động kiếm sống chứ không ăn bám ai nên không thể gọi là ký sinh trùng", “bán hàng rong là một hình thức kinh doanh nhỏ phục vụ cho nhu cầu của một nhóm khách hàng trong xã hội, không nên coi nhẹ”, “buôn bán lấn chiếm vỉa hè thì nên xử lý nghiêm, nhưng cũng cần tạo điều kiện để sử dụng và phát triển “không gian văn hóa” đặc trưng của mỗi đô thị”...

Từ lâu tại các đô thị đã hình thành và phát triển nền “kinh tế vỉa hè”. Diện mạo của nền “kinh tế vỉa hè” văn minh hay không văn minh phần lớn phụ thuộc vào trình độ, năng lực của nhà quản lý đô thị, như kinh nghiệm của nhiều thành phố trên thế giới. Những ý kiến trên cho thấy quan điểm và nhận thức của đa số người dân về vai trò của “kinh tế vỉa hè” và người nhập cư là quan trọng và bình đẳng như mọi thành phần khác. Đồng thời còn là sự chia sẻ của cộng đồng với người nhập cư trên tinh thần nhân văn “thương người như thể thương thân”.

 

3. Từ góc độ quản lý xã hội luôn nhận thấy nguy cơ” từ dòng di cư, nhập cư không ngừng nghỉ làm tăng dân số cơ học cho đô thị, vấn đề an sinh và những nhu cầu thiết yếu luôn vượt ngoài tầm kiểm soát. Nhưng trên thực tế, ở TP. Hồ Chí Minh từ nhiều năm qua chính quyền và người dân đã ứng xử với “nguy cơ” này một cách nhân văn và tích cực, vì nhận thức được giá trị to lớn của “tăng dân số cơ học”. Đó là nguồn sức lao động lớn, nguồn tri thức và văn hóa đa dạng, đặc biệt còn có một phần đáng kể nguồn vốn lớn từ các nhà đầu tư.

Từ các vùng miền khắp cả nước, người di cư, nhập cư đến TP. Hồ Chí Minh đã tham gia vào “thị trường lao động” đa dạng: hàng trăm ngàn người được tuyển dụng vào làm việc trong các KCN – KCX, các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân; một số vào các cơ quan nhà nước... Hàng chục ngàn người khác cũng tìm được những công việc “lao động tự do” rất đa dạng mà khu vực thành thị luôn có nhu cầu cao, như thu mua phế liệu, buôn bán vỉa hè, dịch vụ nhỏ, giúp việc gia đình, lái xe taxi, xe ôm, thợ xây dựng và nhiều việc làm  khác... Tất cả đã đóng góp một phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội các thành phố.

Là một đô thị lớn nhất nước, TP. Hồ Chí Minh cũng là nơi chứa đựng trong nó sự phức tạp nhất nước. Người di cư, nhập cư đến thành phố thường phải đối mặt với những khó khăn thậm chí rất khắc nghiệt, nhất là điều kiện sống. Sự quan tâm của chính quyền và ứng xử nghĩa tình của cộng đồng với người di cư, nhập cư đã tạo điều kiện để họ vượt qua khó khăn, kiếm sống ổn định, hòa nhập vào đời sống đô thị, giúp họ giảm bớt áp lực về tinh thần, là động lực để nhiều người trở thành “người Sài Gòn”, đóng góp nhiều hơn cho thành phố.

Một đô thị văn minh hiện đại ngoài những điều kiện vật chất và tinh thần đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của dân cư, còn phải là một đô thị ứng xử nhân văn, công tâm, công bằng với mọi thành phần dân cư, mọi số phận. Do đó, nếu chất lượng người nhập cư không cao (về tri thức, kỹ năng, sức khỏe, học vấn...) thì không thể làm động lực cho sự phát triển của một “thành phố thông minh, đầu tàu về kinh tế”. Vì vậy, cần phải có chính sách và giải pháp đồng bộ nhằm kiểm soát tốt gia tăng dân số cơ học, hướng tới nâng cao chất lượng dân cư, ổn định xã hội, tạo điều kiện để phát triển bền vững.

Ở TP. Hồ Chí Minh ta có thể gặp những người Sài Gòn nói tiếng Bắc, tiếng Trung hay tiếng Nam, cả nhiều người nói tiếng nước ngoài hay nói tiếng Việt còn lơ lớ, như một “liên hiệp quốc” đa dạng, một tập hơp luôn thay đổi số lượng, tính chất cá thể nhưng lại bền vững về bản chất chung. Tất cả, khi đã coi mình “Ta là người Sài Gòn” thì đều không vì đã được sở hữu ngôi nhà, có tờ hộ khẩu hay việc làm ổn định, an cư lạc nghiệp hay giàu có... mà vì một lẽ khác giản dị mà bền chặt hơn. Như những người bạn của tôi, dù sống ở thành phố này vài chục năm hay chỉ khoảng mươi năm, dù cha mẹ anh em còn ở quê hương hay gia đình họ đã yên ổn ở thành phố, với họ, là “người Sài Gòn” nghĩa là luôn sẵn sàng và hết mình giúp đỡ người khác như một lẽ tự nhiên. 

Sài Gòn, 12.12.2020

 


 

LÀNG NGHỀ SÀI GÒN MỘT THỦA VANG DANH

   (Người Đô Thị Xuân Giáp Thìn 2024) Nguyễn Thị Hậu Sài gòn là một đô thị từ khi khởi lập. Tính chất đô thị của Sài Gòn không chỉ ở chứ...