VỈA HÈ – BAO GIỜ TRẬT TỰ VĂN MINH?


“Chiến dịch vỉa hè” sau thời gian rầm rộ ở quận Một và lan sang nhiều quận huyện khác, một số vỉa hè được thông thoáng và nhiều vỉa hè bị đập phá ngổn ngang cả dưới lề đường và trên những mái hiên… hàng quán đua nhau “sơ tán” vào ngõ hẻm, lùi vào trong nhà, có nhiều hàng gánh xe đẩy phải nghỉ bán. Nhưng việc “lập lại trật tự vỉa hè” không duy trì được lâu.
Gần đây ông Phó Chủ tịch quận Một lại tiếp tục đích thân “ra quân”, tuy không ồn ào như trước vẫn tạo ra cú sốc như việc dẹp bãi xe dành cho đường sách Nguyễn Văn Bình, và gần đây là phát ngôn đanh thép “Ở quận 1 là phải biết luật, không biết thì về rừng U Minh”.

Vì sao việc lập lại trật tự vỉa hè thành phố lại khó khăn như vậy? Hiện trạng này bắt nguồn từ hai nhân tố: về phía người dân: lối sống sinh hoạt kinh tế - văn hóa từ hàng chục năm nay là buôn bán ở nhà mặt tiền hay trên vỉa hè tiện mua thuận bán. Những hoạt động này có sự “trật tự” theo quy luật của đô thị. Về phía chính quyền: không có quy hoạch sử dụng vỉa hè hợp lý để đưa vào quy định luật pháp, xử lý vấn đề tùy tiện và không nhất quán. Chính vì vậy tuy có nhiều tiếng nói ủng hộ “chiến dịch” nhưng hiệu quả không như mong muốn, thậm chí để lại nhiều hình ảnh thiếu thân thiện của chính quyền với người dân.

Như nhiều nhà nghiên cứu văn hóa đô thị đã chỉ ra, vỉa hè không chỉ để “dành cho người đi bộ”. Nó là một bộ phận của cơ sở hạ tầng, vừa có chức năng kỹ thuật (phân định và ngăn cách lòng đường và nhà trên đường, trồng cây xanh, cột điện, nhà chờ xe bus hoặc một số chức năng khác…) vừa có chức năng văn hóa: đi bộ, nơi giao lưu của cộng đồng, là không gian đặc trưng của đô thị trong đó có chức năng kinh tế. Do đó vỉa hè là tài sản công cộng cần được nhà quản lý điều hành và phân bố sao cho việc sử dụng phù hợp từng khu vực và quyền lợi của các nhóm cộng đồng ở đô thị.

Quận Một mang “diện mạo của thành phố TP.HCM”, vì vậy xây dựng “thành phố văn minh – hiện đại – nghĩa tình” ở quận Một là yêu cầu bức thiết. Từ hơn một thế kỷ nay nơi này đã sớm hình thành lối sống đô thị với kinh tế thương mại và dịch vụ “mở” và đa dạng, phục vụ mọi nhu cầu của cư dân đô thị, khách du lịch, khách vãng lai… Trong đó những cửa hàng, vỉa hè, con đường trở thành một thể “thống nhất” tạo ra không gian sinh hoạt của nhiều tầng lớp dân cư… Nếu có những con đường cho đậu xe hơi dưới lòng đường thì cũng có những vỉa hè để xe máy, xe đạp. Nếu những ngôi nhà mở mặt tiền buôn bán thì khoảng vỉa hè trước đó có thể người bán hàng rong sử dụng…

Từ trước năm 1975 cho đến những năm 1980 nhiều vỉa hè, dải phân cách đường phố khu trung tâm quận Một được sử dụng giữ xe máy, xe đạp (lúc đó xe đạp cũng nhiều như xe máy hiện nay). Việc tổ chức bãi xe một cách khoa học và chuyên nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho các tuyến phố Đồng Khời, Nguyễn Huê, Lê Lợi trở thành “phố đi bộ”. Những gánh hàng ăn trên các tuyến phố này bày bán gọn gàng, sạch sẽ, hầu như không đi rong mà có nơi cố định. Những bãi giữ xe, người buôn bán hay hàng rong đều phải nộp thuế, phí và chỉ sử dụng mặt bằng được cho phép. Phần diện tích lớn hơn là dành cho người đi bộ nhất là ở khu vực trung tâm.

Đấy là một trong những biện pháp mà nhiều nơi trên thế giới đã thực hiện làm cho vỉa hè trật tự và sử dụng hết chức năng của nó để mang lại lợi ích cho xã hội. Điều quan trọng là nhà quản lý có những quy định rõ ràng về thuế, phí và xử phạt minh bạch bằng thái độ nghiêm túc và công bằng. Tôn trọng luật pháp phải bắt đầu từ người thi hành luật pháp.

Khu vực quận Một hiện nay thực sự bị quá tải bởi dân cư, đường xá và phương tiện giao thông. Lập lại trật tự vỉa hè (và không chỉ ở vỉa hè) là cần thiết với mục tiêu làm sao cho các hoạt động có trật tự, đảm bảo an toàn thuận tiện cho người đi bộ, đi xe và mỹ quan đô thị. “Trật tự vỉa hè” liên quan đến mật độ dân số ngày càng tăng ở đây, liên quan với tính chất trung tâm của khu vực luôn thu hút rất nhiều người đến đây kiếm sống. Cần nghĩ đến việc nếu dẹp bãi xe hay những gánh hàng rong thì hàng ngàn lượt xe máy và số phận hàng trăm gia đình phải giải quyết thế nào, trong thời gian bao lâu… nếu chưa tính đến tất cả những điều đó thì không thể “ra quân” chỉ nhằm xóa bỏ toàn bộ hoạt động trên vỉa hè, bất chấp sự lãng phí, tính hiệu quả và cao hơn, sự nhân văn đối với người lao động và những người khác cũng có quyền lợi từ vỉa hè.

Trong phạm vi giới hạn của đô thị, chia sẻ không gian công cộng đa chức năng như vỉa hè là một bài toán không khó giải, nếu nhà quản lý thực sự lưu tâm đến quyền lợi chung của đô thị và quyền lợi riêng của từng cộng đồng. Lo cho người đi bộ thì cũng cần lo chỗ để xe, giữ xe cho người đi xe máy, bởi vì đô thị là của tất cả những người đang góp phần làm nên sức sống của nó, trong đó có những người lấy vỉa hè làm nơi buôn bán kiếm sống. Có lẽ không một nhà nước nào có thể đảm bảo việc làm cho tất cả người dân, vì vậy cần tạo điều kiện và có những chế tài phù hợp cho người dân kiếm sống trong hoàn cảnh cho phép. Vỉa hè là một trong những điều kiện ấy.

Vỉa hè thành phố bao giờ trật tự văn minh? Tất nhiên, không phải chờ đến khi những người “không biết luật thì về U Minh” thì vỉa hè TP.HCM sẽ trở nên văn minh! Khi mà còn những ngày rầm rộ “phong trào, ra quân” một cách không khoa học và thiếu nhân văn thì sẽ còn tình trạng vỉa hè mất trật tự, không được sử dụng hợp lý và lãng phí.
Sài Gòn 25.9.2017

THƯ CHỊ U MINH GỬI EM TRAI


Em thân mến,
Đã lâu rồi chị em mình chưa liên lạc với nhau, nhưng nhờ có internet mà chị vẫn thường xuyên theo dõi công việc và cuộc sống của em “nơi thành đô trong ánh điện quang…”. Nhất là gần đây, hoạt động dọn dẹp vỉa hè ở trung tâm thành phố do em khởi xướng và thực hiện đã nổi tiếng vì khắp nơi vang lên những “tiếng nấc nghẹn câu cười”, như lời một bài hát hồi đó mình thường nghe, em còn nhớ không?
Mấy bữa nay chị cảm động hết sức khi báo chí và mạng xã hội đồng loạt đăng câu nói của em “ở quận 1 không hiểu luật thì về U Minh sống". Em vẫn còn nhớ đến mảnh đất quê hương xa xôi (mà bây giờ xe đò chỉ chạy một đêm là tới), nơi cha mẹ sinh ra chị em ta trong những ngày chiến tranh.
Hồi đó, ở rừng U Minh buộc phải biết và sinh hoạt theo những quy luật của chiến tranh để bảo toàn sự sống còn. Nhưng dù theo quy luật nào thì có một điều luật mà người dân luôn tuân thủ. Đó là luật về tình nghĩa với đồng bào, với bạn bè, đồng chí. Làm gì cũng phải nhớ ơn nghĩa trước sau. Đấy là điều luật nghiêm khắc nhất, ai vong ơn bội nghĩa khó nhận được sự tha thứ khoan dung của mọi người.
Nhưng sau phút cảm động, đọc lại câu nói của em chị thấy có gì đó sai sai. Hòa bình hơn 40 năm rồi, dù hẻo lánh hay còn nhiều khó khăn nhưng miệt U Minh không phải là nơi vô thiên vô pháp.
Em còn nhớ những tác phẩm văn học về rừng U Minh mà chúng ta từng say mê đọc khi còn nhỏ? “Hương rừng Cà mau” của Sơn Nam, “Đất rừng phương Nam” của Đoàn Giỏi, “Rừng U Minh” của Nguyễn Văn Bổng… và gần đây là truyện của Nguyễn Ngọc Tư… Tất cả đều kể về một vùng đất vùng rừng xưa nay con người chân chất, thiệt thà và nhân nghĩa.
Họ có thể ít chữ nhưng không ít hiểu biết, họ biết cưu mang giúp đỡ người cơ nhỡ, biết san sẻ khi khó khăn, biết nhường nhịn khi túng thiếu… Họ, có thể chưa rành câu chữ luật pháp nhưng họ cư xử bằng tình nghĩa và bằng sự chính trực.
Em à, có thể em chỉ tiện mồm nói ra câu đó nhưng làm cho những người U Minh như chị thấy chạnh lòng. Lên thành phố mới bao lâu mà em đã coi thường quê mình như vậy? Cha mẹ và những người từng cưu mang gia đình chúng ta sẽ nghĩ gì khi nghe câu nói đó?
Người dân ở đâu cũng phải tuân theo pháp luật, nhất là những người có chức phận như em. Nếu nơi đô thành ai đó không tuân thủ luật pháp thì cũng không thể nói họ về quê mà sống. Nông thôn không phải và không thể là nơi chứa “rác” của thành phố, em hãy nhớ điều đó nhé!
Nơi nào cũng vậy, u minh hay không là ở con người em ạ. Mà biết đâu ở thành phố nếu con người không có sự chính trực công bằng mà chỉ có sự u tối u mê thì còn u minh hơn trong rừng quê mình nữa đấy.
Vài hàng thăm em.
Chị U Minh

TIẾNG ĐÀN BÀ


Tôi đọc Ubee Hoàng từ facebook đã nhiều năm nay, không thường xuyên nhưng hầu như ít bỏ sót những cái note ngăn ngắn đủ các cung bậc cảm xúc và sự biểu hiện của ngôn từ: ngọt ngào có, cay đắng có, hiền dịu có mà đanh đá cũng có… Không thiếu đoạn hài hước kiểu Nam và cũng chẳng thiếu dòng châm biếm kiểu Bắc… Nay tập hợp trong một tập tản văn xinh xinh, trang viết của “Ubee hiền nhứt Sài Gòn” hiện lên muôn mặt cuộc sống nhưng trong một tone màu trầm như tiết trời mùa thu bên ngoài một ngôi nhà luôn sáng ngọn đèn ấm áp.
Bốn phần của tập sách này dù viết về đề tài gì cũng là những mảnh đời mảnh tình của đàn bà, với đàn bà, với con, với đàn ông, với người dưng. Tình yêu không có nhiều ở đây dù vẫn có những mối quan hệ đàn bà – đàn ông. Những mối quan hệ ấy trọn vẹn hay không thì cái thứ “tình” mà Ubee Hoàng kể lại chính là tiếng lòng của đàn bà. Đàn bà dễ bị tổn thương, sau mỗi tổn thương do người khác gây ra (đôi khi chỉ vì vô tình, vô tâm) đàn bà còn lại gì ngoài nỗi tự thương mình và thương nhau? Giấu vào thẳm sâu những tổn thương như chưa từng, đàn bà tiếp tục sống vì mình và vì con. Vậy nên đàn bà nói chung và người mẹ đơn thân nói riêng cô đơn trong khoảnh khắc nào đó nhưng chưa bao giờ cô độc. Bởi họ không coi mình bất hạnh khi có lòng tự trọng và một tình yêu không vụ lợi.
Những chuyện về mình, về con, về người sống xung quanh được Ubee Hoàng chia sẻ là từ những vụn vặt hàng ngày mà ai trong chúng ta cũng dễ dàng bắt gặp, nhưng không phải ai cũng đủ tinh tế để nhận ra và lưu giữ, chắt lọc thành trải nghiệm không chỉ của riêng mình. Nhiều mẩu chuyện khi Ubee Hoàng kể lại, tôi chắc đàn ông không ít người phải nghĩ lại về những gì vợ mình, mẹ và chị em gái mình từng trải qua. Nghĩ lại, và thương hơn những người đàn bà của mình.
Trò chuyện với con – chuyện thường ngày của đàn bà, không chỉ là nói chuyện và dạy dỗ mà để biết về con như một nhân cách độc lập, để hiểu rằng phần lớn cuộc đời của chúng sẽ không có, thậm chí không cần ta bên cạnh. Với hai con là Phia và Rio còn trong độ tuổi thiếu nhi, có thể Ubee Hoàng chưa nghĩ đến điều đó nhưng ở chị đã luôn có sự chia sẻ với các con – những đứa trẻ đang lớn lên. Chia sẻ những gì con nhận biết và không ngần ngại chia sẻ cả thoáng chông chênh của mẹ. Khi gia đình thiếu vắng một người đàn ông thì cách bù đắp lớn nhất là đừng bao giờ gây cho con cảm giác thiếu hụt. Ubee Hoàng đã trò chuyện với con như vậy và tôi thích cách đó.
Đàn bà có mạnh mẽ không? Có chứ, khi đàn bà tự chủ cuộc đời mình! Có tự chủ mới có tự do. Sự tự do cho người ta sức mạnh để có thể hướng đến và làm được những việc tốt đẹp dù không dễ dàng. Không cần phải lớn tiếng về “nữ quyền” mà cứ bình thản sống không phụ thuộc vào bất cứ ai, ấy là cái quyền tối thiểu mà đàn bà cần thực hiện được.
Đàn bà có (cần) yếu đuối không? Có chứ! Bởi sự yếu đuối là không thể tránh khỏi trên đường đời quá nhiều gập ghềnh gai góc. Chỉ có điều, sự yếu đuối không phải để phô trương, nếu có phút bộc lộ cũng là lúc vượt qua, bởi vì đàn bà thực sự luôn tự tin chính mình, như tin vào bản năng vượt cạn sinh con.
Một phần cuốn tản văn này là về Sài Gòn, một Sài Gòn vô cùng dễ thương trong mắt Ubee Hoàng và trong nhiều người khác. Nhiều người đã viết về Sài Gòn, cả tôi nữa. Nhưng Sài Gòn trong cuốn sách này không ngang tàng phóng khoáng mà như khúc nhạc Bolero quen thuộc và có phần đơn điệu, nhưng mỗi khi cất lên thì chạm đến tận đáy lòng…
Tôi dùng TIẾNG ĐÀN BÀ làm lời tựa cho cuốn sách này, đó là tựa đề đầu tiên mà Ubee Hoàng chia sẻ với tôi khi em có ý định mang những trang viết của mình từ trên mạng ra ngoài đời trong hình hài một cuốn sách.

Sài Gòn 15.5.2017 
 Kết quả hình ảnh cho "tiếng đàn bà, ubee hoàng"


The Vietnam War

Cám ơn hai nhà làm phim người Mỹ về nhiều sự thật trong bộ phim này. Nhưng, ai có quyền nói về cuộc chiến tranh vừa qua hơn những người ở cả hai phía đã nằm xuống?! Vì vậy, những người còn sống dù bên nào cũng làm ơn hãy ngẫm nghĩ về những điều bộ phim đặt ra hơn là tiếp tục nói những gì đã nói hơn 40 năm qua!
Link xem bộ phim có phụ đề tiếng Việt đây:

http://www.pbs.org/video/deja-vu-1858-1961-vietnamese-yhieqx/

Trong hình ảnh có thể có: 17 người, văn bản

Người đàn bà chọn cách khóc trong mưa...


Chiều nay đến dự buổi ra mắt cuốn sách Art Life của Đỗ Hương. Ghi vội vài dòng.
Đỗ Hương, người đàn bà hồn nhiên như tôi viết tư nhiều năm trước – vẫn hồn nhiên như thế! Hương yêu hết mình, sống hết mình cho những gì chị thích. Và khi có điều gì không như ý xảy ra, khoảnh khắc buồn qua nhanh tiếp đến là sự biết ơn, biết ơn cả những người đã không thể “đi hết ngày tháng đắm say” cùng chị. Để có thể “lạc quan” như vậy thì cần một tình yêu đủ vô tư, đủ lớn để “làm bạn” với cả người yêu mới của người yêu cũ. Tình yêu và sự “sở hữu” đi liền với nhau như hình với bóng, Hương chọn tình yêu, khác với nhiều đôi lứa dù họ chọn tình yêu nhưng thực ra quan hệ giữa họ chỉ là sở hữu.
À, khi thấy buồn Hương tìm đến tình yêu và… bếp để nấu những món ăn ngon. Đúng thôi, cả hai đều ấm áp, đều ngon lành nếu khéo chế biến, và đều cần “vừa đủ” để không làm người khác chán ngán 
Lúc ra về mình chỉ dặn Hương thế này: Này, nếu phải khóc thì đừng chọn cách khóc trong mưa nữa nhé, ok? Và Hương cười, lấp lánh đôi mắt đã loang loáng ướt…
17.9.2017

@ Còn đây là một note cũ viết về Hương.
Tôi "đến" với Đỗ Hương trên mạng "ảo" như một người đàn bà đến với một người đàn bà, chúng tôi có nhiều điểm giống nhau.
Tôi đến với tranh Đỗ Hương như trở về những ký ức đẹp của một Hà Nội thơ mộng, một làng quê êm đềm còn lưu mãi trong trí nhớ thời thơ ấu.
Tranh của Đỗ Hương là một tính cách khác của chị: Nếu như ngoài đời, trên mạng chị hồn nhiên tung tẩy như một người đàn bà... không tuổi thì tranh chị lại cho thấy một Đỗ Hương đằm thắm, từng trải, chị cứ thì thầm kể về những gì chị nhìn thấy, chị bắt gặp hàng ngày, từ trong nhà ra ngoài phố. Quen đấy mà cũng lạ đấy...
Chị nói chị vẽ như một người không chuyên. Có quan trọng gì đâu, với tôi, quan trọng là cảm xúc mà tranh của chị mang lại, khi tôi ngắm nhìn những bức tranh như gặp lại những người bạn cũ. Đó cũng là những gì tôi từng trải qua.
Và nếu có lần nào đó Hương nói, chị thích đọc những cái mẩu ngăn ngắn của tôi, đọc và không cần còm một lời, đôi khi chỉ là một trái tim màu hồng  , vì tôi đã nói giùm chị những gì chị chất chứa trong lòng... Thì hôm nay, tôi cũng có thể nói rằng, tôi thích tranh của Hương, vì chị đã thể hiện giùm tôi những gì tôi cảm nhận về cuộc sống quanh mình, một cách giản dị và đầy yêu thương.
Chúc mừng mình nhé, Đỗ Hương, ngôi nhà và những bức tranh rất dễ thương 
(4.2014)

Trong hình ảnh có thể có: 3 người, mọi người đang cười

Một tin vui :)




http://hcmussh.edu.vn/?ArticleId=765a6ddb-cc92-40da-b087-e5c6606884af
Công bố 60 cựu sinh viên tiêu biểu Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM giai đoạn 1957-2017
Sáng 12-9, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG TP.HCM) đã tổ chức buổi gặp gỡ báo chí thông tin về chương trình kỉ niệm 60 năm hình thành và phát triển nhà trường.
 Tại buổi gặp mặt các cơ quan báo chí, Nhà trường đã công bố danh sách 60 cựu sinh viên tiêu biểu Trường ĐH Văn khoa - Trường ĐH Tổng hợp - Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn trên các lĩnh vực Khoa học - Giáo dục, Chính trị - Xã hội, Kinh tế, Văn hoá - Nghệ thuật. 
60 cựu sinh viên tiêu biểu là những tấm gương sáng, tiêu biểu cho thành tựu đào tạo của nhà trường. Các cựu sinh viên tiêu biểu sẽ được Nhà trường tuyên dương tại Lễ kỷ niệm 60 năm hình thành và phát triển Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn vào sáng ngày 20-11. Thông tin của các cựu sinh viên tiêu biểu sẽ được xuất bản trong Kỷ yếu trường, đặt ở vị trí trang trọng trong Phòng truyền thống trường...


@ Đang ở xa nhận được tin này, xin cám ơn hội đồng của trường đã bầu chọn. Cám ơn các anh chị và các bạn đã tag và nhắn lời chúc mừng!
Mình rất vui vì sau nhiều năm "lưu lạc" cơ quan khác nhưng nhà trường vẫn luôn mời về giảng dạy, tham gia NCKH và nhiều công việc khác... Còn vui hơn vì được cùng một số anh chị mà mình luôn quý mến, kính trọng trong danh sách này.
P/S. Bạn mình, ngay sau cuộc họp bầu chọn, đã nhắn "Hội đồng bầu chọn Hậu vì nghiên cứu KCH và hoạt động xã hội có uy tín". Oh, điều này phải cám ơn mạng xã hội và nhiều báo chí  :)

BẢO TÀNG VÀ SỰ THẬT


Do thói quen nghề nghiệp (trước đây) nên đi đâu tôi cũng chú ý đến bảo tàng. Nhiều lần tham quan các bảo tàng lịch sử, văn hóa, mỹ thuật… về thời quá khứ xa xưa nhưng “nghệ thuật trưng bày” các chủ đề thì khác nhau, tạo nên sự hấp dẫn riêng của mỗi bảo tàng. Tất nhiên lịch sử văn hóa mỗi nước đều có đặc trưng riêng, nhưng ngay cả những sự kiện, hiện tượng mang tính toàn cầu thì vẫn được trưng bày khác nhau tạo nên những góc nhìn đa chiều, phong phú, qua đó lịch sử được phản ánh toàn diện hơn.
Sự khác biệt rõ nhất về “góc nhìn” chính là các bảo tàng về thời hiện đại. Ví dụ: loại hình bảo tàng quân đội (hay bảo tàng về chiến tranh, bảo tàng lịch sử hoặc nghệ thuật quân sự, bảo tàng sự kiện chiến tranh…), tại một số bảo tàng thường trưng bày toàn vũ khí nhất là vũ khí hiện đại: xe tăng máy bay súng ống tối tân đủ loại đủ kiểu; các sự kiện chiến thắng quân sự và những lời ngợi ca quân mình, công khai những tổn thất của quân địch…
Nhưng nhiều bảo tàng khác lại trưng bày về tác động của chiến tranh đến đời sống xã hội và những con người cụ thể, dường như không lên án tố cáo điều gì, sự thắng thua lại càng không quan trọng mà hậu quả của chiến tranh mới là quan trọng: đó là sự thiệt hại về con người, về vật chất, những chấn thương tâm lý xã hội lâu dài, những biến động xã hội… Điều đó tác động rất mạnh đến người xem vì đó chính là câu chuyện của bản thân, của gia đình mình. Khi chiến tranh trở thành nỗi ghê sợ của mỗi người thì việc gìn giữ sự ổn định, bảo vệ hòa bình cho chính mình, gia đình mình và rộng hơn là tổ quốc mình đồng nghĩa với chống chiến tranh.
Có một bảo tàng (1) về “Thời vừa qua”. Suốt 6 tầng lầu với những căn phòng hẹp, u ám, âm thanh, hình ảnh, tài liệu hiện vật trưng bày bằng thủ pháp mang tính nghệ thuật cao với sự hỗ trợ của phương tiện, kỹ thuật đa truyền thông hiện đại, “ngôn ngữ” trưng bày hiện vật chuẩn xác… khiến người xem không thể nghi ngờ về những gì đang được công khai sau nhiều năm trong vòng bí mật. Thủ pháp trưng bày cùng những bằng chứng làm người xem ám ảnh rất lâu, nhất là với thế hệ không trải qua thời kỳ lịch sử đó.
Có thể tự hỏi, vì sao những sự kiện như thế lại có thể xảy ra, có thể giật mình vì hóa ra lâu nay ta chỉ biết một phần rất nhỏ của sự thật, thậm chí có thể bị sốc vì hóa ra ta cũng từng sống trong một thời “khủng bố”… Nhưng sau khi xem còn lại điều gì? Với riêng tôi gờn gợn một băn khoăn, kiểu trưng bày “sự thật” như thế này chỉ mang lại và khoét sâu hơn sự hận thù một thời đã qua, hận thù những con người cụ thể của một chính thể đã mất.
Bảo tàng trưng bày sự thật lịch sử sao cho con người hiểu hoàn cảnh và nguyên nhân những sai lầm của quá khứ để tránh không lặp lại những sai lầm ấy. Nếu trưng bày “sự thật” mà không vạch ra nguyên nhân của sự thật ấy thì mới là "một nửa sự thật". Điều đó mang lại sự hận thù quá khứ nhưng cũng chứa đựng nguy cơ đưa đến sự thù hận trong tương lai.
(1) bt “Nhà khủng bố” ở đại lộ Ondratsy, Budapest (Hungary).

Trong hình ảnh có thể có: bầu trời

CÀ PHÊ PARIS


 Khi đến bất cứ thành phố nào tôi cũng thường chú ý đến những quán cà phê.
Không phải là một tín đồ trung thành của lọai nước uống màu nâu thơm phức này nhưng cà phê luôn “quyến rũ” tôi, trước hết là vì nó giúp cho tôi tỉnh táo sau chặng đường dài hay chuẩn bị cho một ngày quay cuồng vì công việc. Và, điều này quan trọng hơn, quán cà phê là nơi tôi thường gặp gỡ bạn bè, đồng nghiệp, và những người bạn mới quen. 
Có thể đó là một tiệm cà phê sang trọng danh tiếng khắp thế giới, có thể là một tiệm nhỏ bên đường có bán cả bánh ngọt và thức ăn nhanh, mà cũng có khi là quán hàng bàn ghế bày ngòai lề đường dưới những cây dù màu sắc nhã nhặn hay sặc sỡ. Sự khác nhau giữa nơi này và nơi khác có lẽ là ở hương và vị ly cà phê, là phong cách phục vụ, là cách trưng bày trang trí, là những người cùng ngồi với tôi ở đó. Sự khác nhau còn ở thời gian tôi đến đó ngắn hay dài ngày, vào mùa nào trong năm. Và bạn có tin không, hương vị cà phê mỗi mùa mỗi khác đấy, nhất là ở những nơi có đủ bốn tiết Xuân, Hạ, Thu, Đông như những thành phố ở châu Âu.

Một ngày thu tôi trở lại Paris. Chuyến tàu từ Rotxterdam đến Paris băng qua màn mưa, ánh nắng thi thỏang hiện ra rồi nhanh chóng trốn sau đám mây xám âm u. Giang nói với tôi: phía trời hửng sáng kia là Paris đấy, hy vọng Paris đẹp trời vì thời tiết ở Pháp không thất thường như ở Hà Lan hay Bỉ. Khi tôi đến Paris không mưa tầm tã nhưng gió lạnh đã tràn về. Trưa chủ nhật, khu trung tâm Paris tìm không ra nơi đậu xe, anh chị T. phải chạy xe vòng vòng gần một tiếng mới tìm ra một chỗ hiếm hoi trước quán ăn đối diện Notre Dame. Thật may mắn vì đứng nơi đây có thể nhìn thấy tòan cảnh Nhà thờ Đức bà Paris
Gió hun hút đôi bờ sông Seine bứt tung những chiếc là vàng rải dọc vỉa hè. Những kiốt sách cũ vẫn thế, nhưng hình như những người chủ quán không còn nét hồn hậu như xưa. Vài năm trước tôi qua Paris cũng đến đây tìm mua sách cũ, khi ấy nhiều người bán rất say mê chính những gì họ bán, một cuốn sách bán đi, một tấm bưu thiếp có người mua, một bức tranh có ngừơi chủ mới… người bán dường như phải chia tay với người bạn thân thiết, họ gửi gắm cho người mua cả tình yêu của mình đối với Paris, với nước Pháp. Vẫn đông khách ngắm nghía những tấm bưu thiếp, bức tranh, những cuốn sách cũ. Một Paris cổ xưa hiện lên cụ thể và đa dạng trên từng quầy sách. Tôi và G. trầm trồ trước những bức ảnh đen trắng, những bức ký họa chì chân dung những quý cô quý bà Paris duyên dáng. Cái duyên của những người phụ nữ thấm đẫm sự tinh tế và sang trọng của một Paris cổ xưa…

Quán cà phê nhỏ phía sau Notre Dame. Anh chị T. chọn bàn ngòai vỉa hè dưới cây dù nhỏ vì biết tôi thích như thế. Ngồi cà phê ở Paris thì ngồi ngòai vỉa hè mới cảm nhận hết không khí đặc trưng của Paris : dòng người nối nhau trên đường, những cặp tình nhân thong thả tay trong tay, những cửa hàng đồ lưu niệm tấp nập người ra vào. Bạn sẽ bảo : Ừ thì nơi nào chả thế, bất cứ thành phố du lịch nào mà không có những quán cà phê như vậy ? Nhưng với tôi gió trên những con phố này, những hàng cây lá vàng xào xạc nơi đây, dòng sông Seine lăn tăn sóng dưới kia, ly cà phê nhỏ thơm thơm, những người bạn thân quý ngồi bên tôi… tất cả làm cho ly cà phê không đường càng ngọt ngào hơn, ấm áp hơn…

Một vòng đồi Montmartre, mưa như rây trên những mái nhà ngói cũ, trên những bức tường dây leo xanh lá đỏ, trên những con đường dốc lát đá nhỏ vuông vắn từng viên. Khung cửa nhỏ ấm áp, tiếng nhạc nhè nhẹ, tiệm đồ gốm xinh xắn, ngày cuối tuần du khách rất đông … Từ nhà thờ trung tâm nhìn xuống Paris lô nhô ngút mắt.. Nghỉ chân trong quán cà phê nhỏ. Mưa đã tạnh mà Paris dưới kia sao vẫn mờ như sương… 
 
Mỗi lần cà phê ở Paris luôn mang lại cảm giác lạ mà quen. Cám xúc là lạ khi trở lại bởi tôi luôn giữ trong mình ấn tượng một Paris của những bài thơ những trang tiểu thuyết đã đọc từ thời thơ ấu. Nhưng sự thấp thỏm vì giờ chia tay đang đến gần thì quen lắm, Paris như muốn niu giữ người ra đi khi chiều nay mưa mùa thu đến sớm…

Ly cà phê chợt đắng…

Trong hình ảnh có thể có: thực vật và ngoài trời
Trong hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người và ngoài trời

DI SẢN VĂN HÓA “SỐNG” CÙNG THÀNH PHỐ


Hình như tôi “có duyên” với mùa thu châu Âu nên những ngày cuối tháng Chín vừa qua tôi lại được đến đây để tham dự một cuộc hội thảo về di sản văn hóa tổ chức tại Krakow – Ba Lan vào giữa những ngày thu đẹp nhất. Sau đó, “hành trình” nho nhỏ của tôi bắt đầu từ Warsaw – thành phố hồi sinh từ đổ nát sau chiến tranh thế giới thứ hai, rồi đến Krakow kinh đô cổ xưa của Cộng hòa Ba Lan, sang Budapest –  “Hòn ngọc bên sông Danube” của Cộng hòa Hungary, qua Prague - Cộng hòa Sec, “thành phố tình yêu”; và Wien - Cộng hòa Áo, “kinh đô âm nhạc Châu Âu”. Chỉ là “đi qua” thôi, nhưng những “thủ đô di sản văn hóa” đã để lại cho tôi ấn tượng khó quên, bởi sự hòa hợp kỳ lạ giữa cuộc sống hiện đại và sức sống “cổ tích” từ di sản văn hóa hiện diện mỗi ngày trong thành phố.

Những thành phố này đều là thủ đô  từ thời trung cổ, vì vậy hệ thống thành cổ, cung điện lâu đài, công trình công cộng được xây dựng trong một thời gian dài vài thế kỷ nay được bảo tồn khá nguyên vẹn. Khu vực thành cổ (hay những lâu đài lớn của một dòng họ quý tộc) thường ở trên đồi hay sườn núi, cấu trúc gồm tường thành cao, dày, xây bằng đá hoặc gạch, bên trong là quần thể cung điện, lâu đài, nhà thờ lớn ở trung tâm… xung quanh là khu phố buôn bán và những dịch vụ cho sinh hoạt. Bên ngoài thành có một dòng sông, là đường giao thông và “tuyến phòng ngự” khi có sự cố, nhưng nhờ vậy mà phong cảnh rất nên thơ.

Trong nhiều tòa thành cổ có di tích khảo cổ học. Như trong thành cổ Buda ở Budapest: Khu vực khai quật liền kề với những công trình còn nguyên vẹn, du khách có thể nhìn thấy nền móng của các kiến trúc đã bị sụp đổ, hầm ngầm, đường bí mật sâu dưới lòng đất…Có hố khai quật xong đã lấp cát và trồng cỏ lên trên tạo thành vườn hoa nho nhỏ, có hố được giữ lại, bên ngoài có hàng rào thấp để khách có thể quan sát các tầng văn hóa của di tích. Hiện vật tìm thấy trưng bày trong bảo tàng nhỏ ngay tại tòa thành hay lâu đài ấy. Công trường đang khai quật thì có mái che bên trên bảo vệ hiện trạng, di tích khai quật xong hầu hết được bảo tồn tất cả các lớp kiến trúc làm bằng chứng cho từng giai đoạn, có thể xây dựng vào những niên đại khác nhau. Làm được như vậy vì vật liệu xây dựng hầu hết bằng gạch, đá, trải qua vài trăm năm trong điều kiện khí hậu không ẩm ướt nên vẫn còn chắc chắn. Khu di tích nào cũng có một mô hình đúc bằng đồng đặt gần lối ra vào, thể hiện toàn bộ khu lâu đài, thành cổ, giúp khách tham quan nhận biết tổng thể khu di tích qua các công trình kiến trúc còn nguyên và những phế tích do khảo cổ học khai quật.

Hầu như không có công trình nào xây lại mới hoàn toàn trên nền móng cũ, mặc dù có thể làm được điều đó vì tài liệu, hình ảnh và những căn cứ khoa học còn lưu lại khá đầy đủ. Riêng thành cổ Warsaw là một trường hợp đặc biệt vì chiến tranh thế giới lần thứ hai đã biến Warsaw thành những đống đổ nát hoang tàn trong đó có tòa thành cổ xây dựng từ thế kỷ XII, XIII và tồn tại đến thế kỷ XX. Sau năm 1945 Ba Lan đã xây dựng lại thành phố Warsaw và tòa thành cổ như trước chiến tranh chứ không xây dựng mới hoàn toàn. Các công trình trong thành và cả tường thành đều xây bằng gạch (được nghiên cứu phục chế gần như không khác biệt với gạch cũ, có lẽ nhờ thời tiết không nóng ẩm nên ít bị rêu mốc và các loài thực vật gây hại). Trong thành, đường phố hẹp hay quảng trường rộng còn giữ nguyên những viên đá nhỏ lát thành hoa văn hình vỏ sò, hình xoáy ốc… nhìn vừa đẹp, vừa dễ rút nước khi mưa và mùa tuyết tan, giảm trơn trượt khi băng giá. Tôi đã nhìn thấy một người công nhân với xô hồ và chiếc búa nhỏ trong tay, tỉ mỷ cẩn thận gắn lại vài viên đá bị bật lên. Mọi người qua lại đi chậm và nhẹ chân hơn. Những chiếc xe ngựa lăn bánh lốp cốp trong phố cổ rất hấp dẫn du khách vì tiết kiệm thời gian và cho đôi chân nghỉ ngơi. Dạo chơi trên đường phố lát đá như thế này cũng khá mỏi chân, nhất là nếu bạn không quen đi bộ. Hơn nữa người đánh xe trong bộ trang phục xưa còn là hướng dẫn viên nhiệt tình và thú vị, những câu chuyện xưa về thành cổ, về từng địa điểm từng nhân vật lịch sử… sống động hơn qua từng tour ngắn như thế. Bao thế hệ đã đi trên những đường phố khấp khểnh này và sẽ còn nhiều thế hệ nữa…vì sự tôn trọng lịch sử và ý thức bảo tồn quá khứ trở thành thói quen bình thường của cộng đồng.

Hai bên đường là những tòa nhà xưa, tiệm ăn, cửa hàng, công sở, nhà hát… hầu như không có kiến trúc mới, càng không có công trình nào cao như nhà thờ. Nhìn từ trên cao những tháp nhà thờ vươn lên in trên nền trời xanh thăm thẳm là điểm nhấn quan trọng nhất của từng khu vực. Nhà thờ trung tâm ở giữa quảng trường rộng, nơi mỗi ngày diễn ra nhiều sinh họat cộng đồng. Trên quảng trường và vỉa hè có nhiều quán cà phê ngăn cách với đường phố bằng hàng rào gỗ thấp treo những chậu hoa tươi tắn. Thành cổ lúc nào cũng nhộn nhịp khách du lịch nhưng không tiếng động cơ không mùi khói xăng, thậm chí cũng không có âm thanh ồn ào. Nhịp sống nơi thành cổ bình thản êm đềm như không có cuộc sống hiện đại sôi động đang diễn ra bên ngoài bức tường thành.

Tháng Mười, mùa du lịch cao điểm ở châu Âu đã qua, vậy mà những thành phố tôi đến không hề vắng du khách. Qua mùa hè nóng nực đông đúc, vào mùa thu thời tiết ôn hòa nên có nhiều đoàn du lịch của người cao tuổi và khách từ châu Á. Cũng là quần thể di tích thành cổ, phố cổ nhưng có nhiều hình thức tham quan nhằm đáp ứng nhu cầu, điều kiện khác nhau của du khách: Tham quan tòan bộ lâu đài, cung điện hay chỉ một phần, tham quan hầm mộ trong lâu đài hay nơi có liên quan đến một nhân vật nổi tiếng (ví dụ tour tham quan các gian phòng hòang hậu Sisi từng sống trong cung điện Mùa hè ở Vienna)…Hay một sinh hoạt đặc biệt như Nhà thờ “con gà” ở quảng trường trung tâm thủ đô Praha chẳng hạn, cứ mỗi giờ là du khách tập trung rất đông, ngước nhìn lên tháp đồng hồ để ngắm chú Gà bằng vàng và những vị Thánh xuất hiện lần lượt sau ô cửa nhỏ, rồi tiếng kèn báo hiệu thời khắc vang lên…
Có rất nhiều di tích tham quan miễn phí, nhất là những nhà thờ cổ, nơi ở của các nhân vật lịch sử và danh nhân văn hóa, nhà hát, kể cả những tòa nhà là công sở còn đang hoạt động. Thú vị nhất với tôi là Dinh Tổng thống trong các tòa thành cổ cũng là điểm tham quan của du khách. Tôi được chứng kiến lễ đón khách của Tổng thống Hungary, có Đội danh dự duyệt binh. Du khách vẫn đứng trong sân của Dinh Tổng thống, chỉ có vài cảnh sát làm nhiệm vụ giữ trật tự. Dinh Tổng thống Cộng hòa Sec cũng vậy, ngày vài lần du khách tụ tập vào những thời điểm đổi phiên gác để chiêm ngưỡng đội danh dự bước đi trong trang phục rất đẹp mắt.

Xen giữa đường phố và quần thể công trình kiến trúc là những vườn hoa nho nhỏ, luôn có tượng đài nhân vật, sự kiện lịch sử, danh nhân văn hóa, không hoành tráng phô trương mà hòa hợp với công viên hay quảng trường xung quanh. Những công viên lớn vốn là khu rừng ở trong và ven thành phố cũng được coi là “di sản cảnh quan đô thị” không chỉ vì nó “có tuổi” mà còn vì nơi đây bảo tồn tự nhiên nhiều loại thực vật, động vật nhỏ. Trong công viên Chopin ở Warsaw những chú sóc những chú chim công mạnh dạn đến gần để nhận những mẩu bánh mỳ vụn từ tay người đi dạo. Mùa hè, mùa thu khu rừng ngoại ô thành phố là nơi người dân đến hái nấm, hái quả dại, nghỉ ngơi cùng gia đình, bạn bè trên thảm cỏ xanh thảm lá vàng…

Quan sát “cuộc sống” của những di sản văn hóa có thể nhận thấy giữa bảo tồn và bảo tàng không hề tách rời, bảo tồn di tích cổ là làm cho chúng trở thành những “bảo tàng mở”, những “bảo tàng mở’ mang lại sức sống cho di tích được bảo tồn. Điều đó tạo điều kiện cho công chúng có thể tiếp cận di sản văn hóa một cách dễ dàng nhất, tiếp nhận những giá trị lịch sử - văn hóa một cách phong phú hấp dẫn nhất. Bảo tồn di sản văn hóa cũng không chỉ giới hạn trong phạm vi di tích, mà đã trở thành một bộ phận quan trọng của quy hoạch đô thị và được ưu tiên hàng đầu trong quá trình phát triển đô thị. Một đô thị mà lịch sử luôn hiện diện trên đường phố bằng từng viên gạch, từng ngôi nhà bằng những tượng đài tuyệt đẹp. Một đô thị được lưu giữ ký ức bằng những công trình cổ xưa, bằng âm nhạc cổ điển bằng những bức danh họa… trong từng ngôi nhà từng quán hàng từng tiệm cà phê… Lịch sử và ký ức đô thị hiện lên thật đẹp, vẻ đẹp của quá khứ dành tặng tương lai. Di sản văn hóa được lưu truyền như một vẻ đẹp vĩnh cửu.

Mặc dù tự “cảnh giác” với hội chứng “đi Tây về chỉ ngợi khen Tây” nhưng quả thật, tôi đã nhận được nhiều kinh nghiệm từ việc bảo tồn và “phát huy giá trị” di sản văn hóa của những thành phố này. Họ cũng đã qua “một thời đạn bom, một thời hòa bình”, cũng từng chịu sức ép của “đô thị hóa, hiện đại hóa” sau chiến tranh và trong quá trình phát triển kinh tế, nhưng họ gìn giữ trân trọng di sản văn hóa trước hết là cho đất nước mình, và sau đó “hữu xạ tự nhiên hương”, di sản trở thành của thế giới. Họ đã thành công từ một điều giản dị: di sản văn hóa phải có một đời sống của chính nó, nhờ con người và vì con người.

Trong hình ảnh có thể có: 1 người, đang cười, bầu trời, ngoài trời và cận cảnh

Trong hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người, mọi người đang đứng, bầu trời, cây, ngoài trời và thiên nhiên

160 NĂM THẢO CẦM VIÊN SÀI GÒN

  https://nguoidothi.net.vn/160-nam-thao-cam-vien-sai-gon-42825.html   Nguyễn Thị Hậu Thảo cầm viên Sài Gòn là một không gian công cộng và...