ƯỚC VỌNG HÒA BÌNH

 https://nld.com.vn/thoi-su/hoa-binh-20210428230020749.htm

Nguyễn Thị Hậu

Vào tháng 08 năm 1996 tại New York Ủy ban UNICEF của UNESCO đã đưa ra một chương trình giáo dục các giá trị toàn diện LVEP (Living Values an Educational Program) dành cho trẻ em trên toàn thế giới. Có thể hiểu nội dung chính của chương trình là giáo dục nhận thức và tạo điều kiện cho trẻ em trải nghiệm các giá trị sống cơ bản của nhân loại, bao gồm: Hòa bình, Tôn trọng, Tình yêu thương, Khoan dung, Trung thực, Khiêm tốn, Hợp tác, Hạnh phúc, Trách nhiệm, Giản dị, Tự do và Đoàn kết.

Hòa Bình là giá trị sống cơ bản đầu tiên, là điều kiện để các giá trị sống khác hình thành và phát triển. Hướng đến việc giáo dục trẻ em những giá trị sống này Tổ chức văn hóa giáo dục của Liên Hiệp Quốc đã thể hiện tầm nhìn đúng đắn, lâu dài đến tương lai của nhân loại: trẻ em phải được sống trong hòa bình, biết gìn giữ hòa bình, cùng với những phẩm chất/giá trị sống khác thì trẻ em hôm nay – người lớn ngày mai cũng phải biết bảo vệ và chống lại những gì đe dọa nền hòa bình.

Vì sao Hòa Bình lại được coi là quan trọng nhất, đứng đầu những giá trị sống của nhân loại? Theo nghĩa rộng (tích cực, chủ động) Hòa bình được UNESCO định nghĩa và giải thích như sau: Hòa bình là đặc trưng nổi bật của những gì mà chúng ta gọi là “xã hội văn minh”, là mơ ước của biết bao thế hệ người về một trạng thái tinh thần bình an, một cuộc sống hạnh phúc không có chiến tranh và bạo lực, trong đó mọi người đều yêu thương và hợp tác cùng nhau.

Hòa bình cần phải bắt đầu từ mỗi người trong số chúng ta. Thông qua sự suy ngẫm lặng lẽ và nghiêm túc về ý nghĩa của hòa bình, mỗi người, mỗi dân tộc lại có được các cách thức và sáng tạo mới để có thể hiểu biết, cảm thông và chia sẻ cùng nhau hướng tới tình bạn và sự hợp tác. Hòa bình bao gồm có các tư tưởng, tình cảm, ước muốn và hành động trong sáng. Để giữ được hòa bình chúng ta cần có tri thức, tình cảm, lòng quyết tâm và sức mạnh”.

            Một cách hiểu đơn giản và phổ biến, “Hòa bình là tình trạng không có chiến tranh”. Cũng có nghĩa là chiến tranh để lại hậu quả trái ngược với hòa bình: Có thể nhìn thấy ngay những tội ác khủng khiếp, nhất là tội diệt chủng, sự tàn phá những thành tựu văn minh của loài người. Nhưng chiến tranh còn để lại hậu quả lâu dài và không dễ nhận thức, đó là sự hủy diệt, phá vỡ và làm đảo lộn các giá trị sống của nhân loại nói chung, của từng khu vực từng quốc gia nói riêng.

Chính vì điều đó mà Hòa Bình trở thành điều kiện tiên quyết để con người được SỐNG HẠNH PHÚC và nhân loại PHÁT TRIỂN VĂN MINH.

***

Có thể nói Việt Nam là đất nước hiểu rõ về chiến tranh và có ước vọng Hòa bình hơn ai hết.

Tính từ nhà nước độc lập đầu tiên ra đời vào năm 939 của Ngô Quyền, diễn trình lịch sử thời trung đại Việt Nam (từ thế kỷ 10 cho đến đầu thế kỷ 19) đã lý giải cho nhận định trên:

Trong khoảng gần 10 thế kỷ, liên tiếp các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc. Đây là đặc điểm nổi bật của lịch sử Đại Việt. Các vương triều thường được thành lập sau chiến thắng ngoại xâm và bắt đầu xây dựng quốc gia tự chủ. Giai đoạn cuối của các triều đại thường xảy ra “nội chiến” trong triều chính hoặc khởi nghĩa nông dân/nổi loạn ngoài xã hội, vì vậy xã hội bất ổn, đời sống nhân dân không được bình yên. Bên cạnh đó còn có những lần xung đột với vương quốc Chămpa, rồi nội chiến đàng trong/đàng ngoài kéo dài hơn hai trăm năm...  “Từ thủa mang gươm đi mở cõi” đất nước được mở rộng dần về phía Nam. Từ đầu thế kỷ 19 có một lãnh thổ tròn vẹn như ngày nay.

Từ nửa sau thế kỷ 19 đến hết thế kỷ 20 Việt Nam lại phải tiếp tục hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ngày 30.4.1975 thống nhất đất nước, hòa bình chưa bao lâu thì nổ ra cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh chống bành trướng Trung quốc ở biên giới phía Bắc. Hiện nay chúng ta vẫn luôn cảnh giác và sẵn sàng bảo vệ biển đảo của Tổ quốc.

Mười thế kỷ luôn biến động, thời gian hòa bình đã không dài còn bị cắt đứt bởi chiến tranh. Người dân lúc nào cũng trong tâm thế “ngụ binh ư nông”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, chính quyền luôn trong trạng thái cảnh giác ngó trước nhìn sau để kịp thời ứng phó với giặc ngoại xâm. Bao thế hệ người Việt Nam đã mơ “giấc mơ Hòa Bình” và luôn đấu tranh cho điều đó trở thành hiện thực, kể cả khi biết rằng có thể đến đời con cháu mình mới được hưởng nền hòa bình trọn vẹn.

***

 Bao nhiêu năm đã qua hay nhiều năm nữa về sau, đối với người Việt Nam ngày 30/4 mang ý nghĩa lớn nhất là ngày kết thúc chiến tranh. Chiến tranh kéo dài đến đâu cũng chỉ là hiện tượng nhất thời. Trước và sau chiến tranh là cuộc sống hòa bình, bất cứ người nghèo khó hay giàu sang thì cũng mong ước được sống trong hòa bình, mong muốn chồng con anh em không phải ra chiến trường, không bị tên bay đạn lạc... Trên khắp đất nước có biết bao nhiêu nghĩa trang của những người lính, của dân thường đã chết trong những năm dài chiến tranh, có những người ra đi đúng thời điểm hòa bình chạm vào cửa ngõ Sài Gòn. Tất cả họ chưa từng được hưởng một giây phút hòa bình cho đến khi sang thế giới bên kia, để cho những người ở lại được sống trong hòa bình.

Nếu tính đời người bắt đầu từ khi đủ tuổi dựng vợ gả chồng để sinh thành một thế hệ mới, thì hơn bốn mươi sáu năm qua đã hai thế hệ hậu chiến ra đời và trưởng thành. Nhìn con cái lớn lên và phải giải quyết những vấn đề của thế hệ @ là đừng để đất nước bị lạc hậu so với thế giới, thậm chí còn “gay go, ác liệt” hơn cuộc chiến của thế hệ chúng ta, tôi bỗng nhận ra rằng, nếu chỉ mãi nhìn về một thời chiến tranh thì khác nào chúng ta tự giam mình trong “bảo tàng viện” và trở nên xa lạ với cuộc sống hòa bình đang diễn ra bên ngoài tủ kính.

Chắc chắn còn nhiều điều làm ta bức xúc, chưa thể hài lòng nhất là về đời sống tinh thần, nhưng cũng cần nhìn thấy những điều tốt đẹp. Sự thay đổi của những dòng kênh đen”, khu đô thị mới hay tuyến metro đang thành hình, những khu đô thành phố đang thay da đổi thịt… đó là kết tinh công sức của biết bao nhiêu con người thầm lặng lao động trong hòa bình dù cuộc sống còn nhiều vất vả. Chúng ta quý trọng những đổi thay dù nhỏ vì giá trị lao động của những con người đó, quý trọng những gì hiện hữu mỗi ngày đó là cuộc sống của các con ta, và vì chính chúng ta đang sống.

Các giá trị sống cơ bản của nhân loại mà Unesco đúc kết lại không gì khác chính là những thông điệp thế hệ hôm nay gửi đến thế hệ mai sau. “Trẻ em hôm nay – thế giới ngày mai”, giáo dục cho trẻ em hiểu biết giá trị và yêu mến Hòa Bình và những giá trị sống nhân bản khác cũng là cách tốt nhất để ngăn ngừa và chống lại chiến tranh. Ngược lại, đã và đang sống trong hòa bình nhưng không hiểu biết và không tôn trọng những giá trị sống cơ bản khác của nhân loại thì xung đột và chiến tranh vẫn có nguy cơ xảy ra. Bởi vì nền hòa bình ở bất cứ nơi nào cũng chỉ có được trên cơ sở thực sự tôn trọng và yêu thương con người.

TP. Hồ Chí Minh 24.4.2021



HÒA BÌNH KHÔNG CÒN Ở “THÌ TƯƠNG LAI”

 https://nguoidothi.net.vn/hoa-binh-khong-con-o-thi-tuong-lai-28356.html

Nguyễn Thị Hậu

 Sau sự kiện Vịnh Bắc bộ ngày 5 tháng 8 năm 1964, chiến tranh bùng nổ ở miền Bắc. Khi má tôi mang về nhà mấy chiếc ba-lô may bằng vải bạt màu ghi, tôi đâu biết rằng những chiếc ba lô ấy là dấu hiệu chia ly rất lâu của gia đình mình. Sau đó ít ngày anh tôi rồi ba tôi lên đường ra chiến trường.

Trong ký ức của tôi chiến tranh bắt đầu từ đó, và cũng từ đó đến nhiều năm sau nữa hai chữ “hòa bình” luôn được nói đến ở “thì tương lai”. Bao giờ hòa bình sẽ được về Hà Nội không phải đi sơ tán nữa, bao giờ hòa bình cả nhà mình đoàn tụ, bao giờ hòa bình ba má sẽ đưa con về miền Nam, được gặp ông bà nội ngoại. Bao giờ hòa bình...

Những năm đó ước vọng hòa bình luôn gắn liền với thống nhất. Hòa bình là Nam Bắc một nhà, hết chiến tranh là đất nước thống nhất “non sông liền một dải” như bài thơ tôi học thuộc lòng từ thủa nhỏ: Học đi em/ Học đi mà nhớ mãi / Quê hương ta một dải / Từ mũi Cà Mau/ Đến địa đầu Móng Cái...

Còn nhớ một lần tôi phạm lỗi gì đó, ba tôi giận lắm nhưng ông chỉ nói: “hòa bình thống nhứt ba sẽ bỏ con ở ngoài này không cho về quê!”. Tôi khóc nức nở rất lâu... Má tôi đi làm về nghe chuyện liền nói: “hai cha con rảnh quá mà mơ chuyện hòa bình thống nhứt”, rồi vội quay đi nước mắt rưng rưng...

 Giữa năm 1975 giấc mơ hòa bình trở thành hiện thực, cả gia đình tôi sum họp ở Sài Gòn. Rồi tôi được về quê hương nội ngoại ở miền Tây. Khi nghe giọng Hà Nội của tôi bà con ai cũng cười vì “không giống tiếng Việt mình”. Với nhiều người Nam bộ khi ấy, “tiếng Việt mình” là tiếng miền Tây, chớ tiếng Trung tiếng Bắc là nơi nào đó xa xôi lắm... Nhưng chỉ vài năm sau tôi đã rất vui và cảm động khi đi dạy ở đâu cũng được nghe sinh viên nói “thích giọng Hà Nội của cô”.

Bây giờ nhiều tiếng nói, món ăn các vùng miền khác đã phổ biến hơn ở miền Nam, cũng như nhiều sinh hoạt văn hóa của miền Nam đã trở nên quen thuộc ở miền Bắc.

Hậu quả của chiến tranh không chỉ là mất mát đau thương mà còn là sự “đứt gãy” và “phủ nhận” nhiều giá trị văn hóa của quốc gia. Và hòa bình không chỉ là chấm dứt bom đạn mà còn mang lại hiểu biết về văn hóa đất nước mình, về những điều tốt đẹp của đồng bào mình.

***

Từ năm 1975 đến nay, mặc dù có thời gian xảy ra chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc và cuộc chiến bảo vệ biển đảo, nhưng về cơ bản đất nước ta đã có hơn bốn mươi năm hòa bình – thống nhất. Chấm dứt cuộc chiến tranh ác liệt dài hơn hai mươi năm để “giang sơn thu về một mối” và hòa bình cho nhân dân, nhưng nếu lòng người còn ngổn ngang trăm mối thì thống nhất chưa bền chặt, nhân dân chưa thực sự ấm no hạnh phúc thì giá trị của hòa bình chưa trọn vẹn.

Đã gần nửa thế kỷ trôi qua từ khi kết thúc chiến tranh, ngay sau đó toàn dân phải chạy đua để thoát đói nghèo trong những năm hậu chiến, rồi nhìn quanh thấy đất nước mình phải chạy nhanh hơn để theo kịp thế giới. Cùng với quá khứ hàng ngàn năm liên tục chống ngoại xâm, “cuộc chiến” chống đói nghèo tụt hậu làm cho chúng ta chưa thật sự có tâm thức của một quốc gia hòa bình. Dường như mỗi con người mỗi thế hệ chưa đủ sự tĩnh tâm suy nghĩ về ý nghĩa của hòa bình, về giá trị của cuộc sống hòa bình, chưa tìm thấy cách thức mới và phù hợp cho “người với người sống để yêu nhau” khi đã có hòa bình.

Tinh thần của hòa bình là sự quý trọng mỗi con người, là sự bình đẳng về mọi mặt - nhất là văn hóa - của các cộng đồng, trao đổi học hỏi giao lưu giữa các quốc gia trên thế giới. Từ văn hóa và nhờ văn hóa con người quen thuộc rồi hiểu biết nhau hơn, tôn trọng và yêu thương nhau hơn. Điều đó giúp cho mọi cộng đồng chung sống hoà thuận, giải quyết các xung đột bằng phương thức hòa bình. Trên thế giới các quốc gia tránh được chiến tranh, bảo vệ nền hòa bình dài lâu và cùng nhau phát triển.

Trên bước đường phát triển hội nhập, những giá trị văn hóa mới và tốt đẹp của thế giới tạo điều kiện cho sự hiểu biết và hợp tác giữa tất cả các quốc gia. Những giá trị ấy còn giúp mở rộng tầm nhìn, nâng cao tri thức, mang lại ý thức về độc lập và tự do cho mỗi con người. Hành trình đấu tranh cho Hòa bình và Thống nhất đất nước ta đâu ngoài mục đích Độc lập - Tự do - Hạnh phúc cho mọi người dân và cho dân tộc.

 Tp. Hồ Chí Minh, 26.4.2021






 

 

Ý kiến của tôi về sự phát triển huyện Cần Giờ (TPHCM).

 Trong buổi làm việc của Bí thư Thành ủy TPHCM tại huyện Cần Giờ.

https://www.sggp.org.vn/lang-nghe-ky-y-kien-phan-bien-ve-phat-trien-can-gio-727324.html?fbclid=IwAR2b8ZdsbDtFd6rpByShe8i7_qW68nlPSFQEK9Ad-Ex98JaUPLrnDj3IBNc

Chú ý “3 ADN” đặc trưng của Cần Giờ
TS Nguyễn Thị Hậu đồng ý phải phát phát triển Cần Giờ. Song, vấn đề là phải phát triển thế nào. Theo TS Nguyễn Thị Hậu, khi phát triển Cần Giờ cần chú ý tới “3 ADN”, tức là đặc trưng của Cần Giờ.
“3 ADN” cơ bản là hệ sinh thái rừng ngập mặn. Cần Giờ phát triển cần phải có rừng ngập mặn. Đây là “ADN di truyền”, cần bảo tồn và phát triển. Việc UNESCO công nhận rừng Cần Giờ là Khu dự trữ sinh quyển thế giới không chỉ có ý nghĩa về mặt môi trường mà còn gián tiếp công nhận và vinh danh công lao của Việt Nam, của TPHCM trong việc khôi phục mảng rừng đã bị chiến tranh tàn phá. Điều này không thể phủ nhận. Đây cũng chính là “ADN” giúp Cần Giờ và TPHCM khác biệt so với nhiều nơi khác.
“ADN” thứ hai, đó là mặt tiền biển và cửa sông, không chỉ là mặt tiền, cửa ngõ của TPHCM mà còn mang lại kinh tế biển cho cả Nam bộ. Vì thế, phát triển Cần Giờ không chỉ là phát triển cho một huyện Cần Giờ mà còn là phát triển cho cả vùng.
“ADN” thứ ba, hệ thống di tích ở Cần Giờ có giá trị rất đặc biệt, mang tính độc đáo mà nhiều nước trong khu vực không có. Lợi thế này giúp phát triển du lịch văn hóa bên cạnh phát triển du lịch sinh thái.
Cần Giờ là vị trí chiến lược của TPHCM. Vì thế, nếu bám vào “ADN” thì phát triển Cần Giờ đúng là Cần Giờ chứ không bị biến dạng, mất bản sắc.





GS TRẦN QUỐC VƯỢNG – MẤY VẤN ĐỀ VỀ VUA GIA LONG (tiếp và hết)

 

* PHẦN HAI 

01.  Luôn “trung thành” với tư duy tự ý thức rằng “Tôi không phải là một nhà sử học chính tông”, sau đây tôi chỉ nói – và viết – đôi điều “lặt vặt” tôi nhớ lại và cảm nhận được về vị vua khai sáng triều Nguyễn – Gia Long. 

  01.1. Nguyễn Ánh đã từng bôn ba từ đất liền ra các hải đảo, Côn Lôn, Phú Quốc…   Do nghiệm sinh cá nhân, tôi rất thích những người “bôn ba”, “từng trải”… dù với ý định chủ quan gì hay là do sự dủi dun của Trời Đất – Tự nhiên. Vị Tam Nguyên Vị Xuyên xứ Nam Hạ – Nam Hà quê tôi Trần Bích San đã có hai câu thơ mà tôi coi là tuyệt bút, nhất là câu sau:   Văn vô sơn thủy phi kỳ khí,   Nhân bất phong sương vị lão tài !   Nghĩa là:   Văn không sông núi, không cao diệu,   Người chẳng phong sương, khó rạng tài !   

01.2. Rất gần đây, tôi được đọc bản thảo bài viết của một học giả Mỹ, trong đó có đoạn đại ý rằng:   Phụ thân Hồ Chí Minh – Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Huy (Sắc) là một người phiêu lãng (Wanderer), nhưng cụ mới chỉ “lãng du” ở trong nước Việt từ xứ Nghệ xứ Huế đến xứ Thanh, xứ Bình Định rồi vô miền Nam, Sài Gòn, Sông Bé, Long An, Sa Đéc…   Có thể Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh cũng được “di truyền” bởi cái “gen” văn hóa phiêu lãng (wandering) đó, nhưng “CON hơn cha là nhà có PHÚC”, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã phiêu lãng gần như toàn thế giới, từ Á, Âu đến Phi, Mỹ… và ông đã có dịp “sống nghiệm” với nhiều nền văn hóa khác nhau; do đó ông đã trải nghiệm đối sánh nhiều LỐI SỐNG (Way (s)) trên tảng nền LỐI SỐNG VIỆT NAM. Ông giỏi ngoại ngữ mà ngôn ngữ là một sản phẩm đồng thời là một thành tố của Văn hóa, cho nên ông trở thành người của toàn Nhân loại và ông trở nên DUNG DỊ (Generous), rất Việt Nam và cũng rất “Thể tất”, rất “Cận NHÂN TÌNH” (Hunman Sense). Do vậy, Wandering phiêu lãng ở ông là một GIÁ TRỊ VĂN HÓA.   Thế mà đã có kẻ dám dịch “wandering” là “lang bang, lang thang” và bảo rằng học giả Mỹ đó có dụng ý nói xấu Cụ Hồ ! Đáng xấu hổ thay người “DỐT HAY NÓI CHỮ” hay là “HAY CHỮ LỎNG” ! 


  01.3. Nguyễn Ánh (Gia Long từ 1802) đã bôn ba từ đất liền đến hải đảo, từ Việt đến Xiêm, đánh Tây Sơn bại rồi thắng to cũng có, mà đánh thắng cả Miến Điện theo yêu cầu – có lúc là “quái ác” – của vua Xiêm cũng có. Nguyễn Ánh bẩm sinh và sinh nghiệm là một vị tướng tài ba “thắng không kiêu, bại không nản”. Bị Xiêm rồi bị Pháp và sau cả Thanh Mãn Trung Hoa khống chế, gây “áp lực” song Nguyễn Ánh vẫn tìm mọi cách để “thoát ra” được sự khống chế đó và – cho dù chỉ theo ý kiến cá nhân tôi – ông vẫn là NGƯỜI VIỆT NAM và đứng đầu một CHÍNH QUYỀN ĐỘC LẬP VIỆT NAM, cho dù ông chịu nhiều áp lực ngoại bang và cũng có lúc phải sử dụng nhiều cố vấn trong nước và nước ngoài. Ông nghe nhiều nhưng ông nghĩ và làm phần nhiều theo ý ông. Từ 1815 hay về cuối đời, dù nể trọng Tả quân Lê Văn Duyệt, ông vẫn quyết định chọn hoàng tử Đảm (vua Minh Mạng ngày sau) chứ đâu có chọn cháu đích tông – con hoàng tử Cảnh – làm người kế vị ông. Mà Minh Mạng, thì nên trọng nể và học tập ông về việc quản lý hành chánh đất nước và xã hội nhiều hơn nữa, chứ trách cứ ông thì cũng dễ thôi.

01.4.                  Cho dù ông tin cậy và nhờ cậy vào giám mục Bá Đa Lộc và tỏ ra “khoan hòa” với Thiên chúa giáo của phương Tây, cho dù hoàng tử Cảnh – trưởng nam của ông – đã trở thành giáo dân Thiên chúa giáo, khi ở Gia Định (Nam Bộ) cũng như khi trở thành hoàng đế toàn Việt Nam, ông vẫn tôn Nho, trọng dụng “Gia Định tam gia” người Việt gốc Hoa (Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh), vẫn trọng Phật, Lão và tín ngưỡng dân gian, dù là Việt Nam, là Khơ Me, hay là Chăm, là Thượng… Đội cận vệ của Gia Long, theo sử chép, chủ yếu là người “Thượng” (Sơn nhân). Ở thập kỷ 80, tôi đi điền dã ở xứ Quảng, ở Tây Nguyên, các tộc “thiểu số” vẫn nhắc đến Gia Long với một niềm kính nể. Có một thứ cây nửa trồng nửa hoang dại mang tên “Hoàng oanh quất” (quýt vàng) quả ăn ngon, người dân tộc vẫn bảo tôi rằng đó là thứ quả cây của vùng sơn cước đã nuôi sống Nguyễn Ánh thời khăn khó, sau này trở thành Quýt Ngự. Ấy là tôi chưa kể “Quế Trà My”…  

01.5.                  Ông không chống Tây, Thiên chúa, cũng không sùng bái quá đáng Thanh – Nho như người ta tưởng, và ông loay hoay – tìm mà chẳng được – một HỆ Ý THỨC VIỆT NAM. Ông làm theo kiểu Việt Nam mà chưa điều chế nổi một lối suy nghĩ (Way of thinking) Việt Nam. Chỉ sau này Nguyễn Ái Quốc mới xây dựng được một Tư tưởng Hồ Chí Minh tương đối thuần Việt Nam. Nhưng đó lại là một đề tài chuyên luận Triết – Sử khác, ít dính dáng đến chủ đề ta đang bàn về Gia Long.  


 02. Sau 10 năm chinh chiến mà dân gian miền Nam Trung Bộ gọi là “TRẬN GIẶC MÙA” (1791-1801) – mùa gió nồm nam, Nguyễn Ánh mới dùng đội thủy chiến THUYỀN BUỒM ra đánh Tây Sơn – cuối cùng ông đã thắng. 

  02.1. Tôi là con cháu nhà Nho nên cũng có biết câu “Bất tương thành bại luận anh hùng”, nghĩa là “luận anh hùng, chớ kể hơn thua !”.   Song, nếu tôi là nhà sử học như các quý vị Phan Huy Lê, Nguyễn Phan Quang… khả kính, tôi cũng phải tìm cách “giải thích” lịch sử chiến thắng của Nguyễn Ánh với Tây Sơn chứ nhỉ ?   Chả nhẽ lại chỉ dùng một thứ “chủ nghĩa Mác thô sơ” là cuối cùng NÔNG DÂN – nếu không có một Đảng của giai cấp công nhân đô thị hiện đại lãnh đạo thì bao giờ cũng THUA giai cấp địa chủ – phong kiến , mà dù có thắng – như Tây Sơn đã từng thắng trước đó – thì rồi cũng bị ĐỊA CHỦ HÓA, PHONG KIẾN HÓA mà thôi !   

02.2. Như tôi đã nghiệm sinh trên điền dã khắp Bắc Trung và chút chút ở miền Nam, tôi đã thấy cả Nguyễn Nhạc và cả Bắc Bình Vương – Quang Trung (tất nhiên cả Nguyễn Lữ nữa) đã thất nhân tâm khi các ông – như học giả Tạ Chí Đại Trường đã dẫn ra nhiều chứng cứ (Xem Nội chiến ở Việt Nam 1771-1801…) – ở miền Trung, chỉ để 01 chùa ở cấp huyện, ở miền Bắc chỉ để 01 chùa ở cấp tổng. “ĐẤT VUA – chùa LÀNG – Phong cảnh BỤT” – sáng – chiều nghe tiếng chuông chùa “chiêu mộ” để tấm lòng thư giãn, để biết thời gian trôi chảy vô thường đã từ lâu in hằn vào tâm thức người Việt. Phá chùa, đập tượng, nung chuông (làm tiền, làm khí giới) là làm phản lại tâm thức Việt Nam. Có lẽ nào dân gian xứ Bắc – Đàng Ngoài vốn kính VUA (Lê) nể CHÚA (Trịnh) và sùng Phật – Đạo, dù rất trọng Quang Trung đã vì dân mà chiến đấu và chiến thắng giặc Mãn Thanh, thế mà bên câu ca dao “cổ” (XV):   Lạy trời cho cả gió lên,   Cho cờ vua Bình Định(2) phất (phới) trên kinh thành(3).                      Lại có câu ca dao “cận đại”:   Lạy trời cho cả gió Nồm,   Cho thuyền chúa (vua) Nguyễn thắng buồm thẳng ra ! Ra… là ra Bắc. Vô là vô (vào) Trung – Nam. Đấy là một câu ca dao thuần Bắc cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đừng nên chỉ suy diễn lòng dân (XVIII-XIX) theo chủ quan “bác học” (XX), mà nhà làm sử rất nên tham khảo Folklore, nhất là Folklore cổ – cận – dân gian. 


  02.3. Quân Tây Sơn vào Nam – Nam Bộ – thì phá Cù Lao Phố (Biên Hòa hiện nay), giết hại thương nhân Hoa kiều, vứt phá hàng ngoại bỏ ra đầy đường, sau ở Sài Gòn thì cũng vậy; ra Trung thì tàn phá Hội An (Faifoo), 10 năm sau còn chưa phục hồi lại được; ra Bắc thì phá Vị Hoàng, phố Hiến và có đâu chừa lắm cả Thăng Long. Khi nho sĩ Bắc Hà – mượn lời nông dân xóm Văn Chương – để thưa kiện với chúa Tây Sơn về việc tòa Văn Miếu – bia Tiến Sĩ bị phá thì Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã thành thật phê vào đơn:   Thôi ! Thôi ! Thôi ! Việc đã rồi !   Trăm điều hãy cứ trách bồi vào ta !   Nay mai dựng lại nước nhà,   Bia Nghè lại dựng trên tòa muôn gian.   Thôi cũng đừng đổ oan cho thằng Trịnh Khải (1785-1786) !  

 02.4. Gia Long dù bắt đổi Thăng Long ( ) từ thành phố Rồng bay thủ đô cả nước ra Thăng Long ( ) – ngày thêm thịnh vượng – thủ phủ Bắc thành và dời thủ đô cùng cả Quốc Tử Giám – Văn Miếu vào Huế thì ở Văn Miếu Thăng Long, Gia Long vẫn cho xây một tòaKhuê Văn Các, nhỏ thôi mà cực đẹp; và ở thành cũ hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan, ông cũng cho xây một tòa Cột Cờ cao đẹp nhất kinh thành ngày ấy và cho đến nay còn tồn tại !   Thế thì kể ra cũng khó mà chê Gia Long và nghệ thuật kiến trúc Nguyễn ! Mà chê bai làm gì nhỉ, khi chúng – với thời gian – đã trở thành cái ĐẸP, cái Di sản Văn hóa Dân tộc – Dân gian.   Huế trở thành một Di sản Văn hóa Nhân loại – theo Quyết định của UNESCO 1993, mà hiện nay ta rất tự hào và đang biến thành Trung tâm Du lịch Văn hóa Việt Nam là NHỜ AI, nếu không phải là nhờ VUA – QUAN – DÂN thời Gia Long – Minh Mạng – Tự Đức và Nguyễn nói chung ?   Kính xin quý vị Sử gia – tạm / gượng gọi là “đồng nghiệp” của tôi bơn bớt việc “chửi bới” nhà Nguyễn – đời Nguyễn – bắt đầu từ Gia Long – đi cho tôi và dân chúng nhờ… Và thái độ tốt nhất là xếp cả xứ Huế và Việt Nam khi ấy vào Bảo tàng Lịch sử và coi khi đó, không gian đó như một TẤT YẾU TẤT NHIÊN của LỊCH SỬ VIỆT NAM !   


02.5 Tôi những tưởng mình sẽ bị khiển trách và “thăm hỏi" vì đã dám ghé thăm ngôi đình làng mang niên hiệu Gia Long trùng tu mà không trình báo lãnh đạo xã. Nhưng không!, tôi được chiêu đãi một bữa bia đã đời, vì đã được cán bộ xã đứng tựa cột đình nghe lỏm – tôi đang giảng giải cho các cán bộ cùng đi – về nét đẹp ngôi đình làng này và tỏ ý tiếc vì bị nhà nước bỏ quên. Nghe các nhà lãnh đạo xã quê hương Gia Long nói thêm về tình hình xã, tôi rất mừng vì các đảng viên Gia Miêu, quê hương nhà Nguyễn đã tỏ ra có tư duy đổi mới khi nhận nhìn vai trò lịch sử của vua Gia Long và nhà Nguyễn với thái độ “thể tất nhân tình”, rất đậm đà bản sắc Việt Nam.

Tuy Trịnh Kiểm đã giết Nguyễn Uông, nhưng chính sử nhà Nguyễn, kể cả Đại Nam nhất thống chí, quyển về Thanh Hóa tỉnh, mục nhân vật vẫn chép về Trịnh Kiểm mà không hề có một lời nói xấu nào về ông tổ họ Trịnh này. Tôi có một số bạn bè họ Trịnh đã, đang làm cán bộ cao cấp của nhà nước Việt Nam. Tôi đưa cho họ xem bản Trịnh gia thế phả do Trịnh Cơ vâng lệnh Gia Long, khai báo lại năm 1802.

Lời mở đầu cuốn gia phả họ Trịnh này viết rằng khi vua Gia Long ra Bắc, ông đã cho gọi tộc trưởng họ Trịnh là Trịnh Cơ ra Thăng Long và phán bảo rằng:

- Họ nhà ngươi và họ ta là hai họ có thâm thù vì tổ họ ngươi đã giết tổ họ ta!

Trịnh Cơ run rẩy nghĩ rằng mình và họ mình sẽ bị Gia Long “làm cỏ sạch gốc rễ” để trả thù như Tây Sơn. Nhưng mà không, vua Gia Long nói tiếp:

- Nhưng họ nhà ngươi và họ ta đã từng là thông gia – thân gia. Ta sẽ lấy tình thân gia mà đối đãi với họ ngươi. Song họ ta ở Nam đã quá lâu, ta chẳng biết rõ gì về họ ngươi cả. Vậy ngươi hãy cung khai về gốc gác họ Trịnh trình cho ta biết.

Trịnh Cơ mang gia phả cũ ra tham khảo và cứ theo sự thực viết ra. Đọc xong gia phả họ Trịnh, Gia Long đã phê ban cho họ Trịnh 200 mẫu ruộng công để dựng nên Trịnh điện làm nơi thờ tự các chúa Trịnh

02.6 Khi còn ở Gia Định và mới chỉ có Gia Định trước 1801-1802, Nguyễn Ánh – Gia Long đã vận dụng “cơ chế thị trường” và đã biến Sài Gòn miền Nam thành nơi sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ra toàn Đông Nam Á để đổi lấy các sản phẩm công nghiệp phương Tây, cố nhiên hàng nhập khẩu được ưu tiên hàng đầu là vũ khí để chống lại Tây Sơn. Tôi không muốn bình luận về ý đồ chủ quan của Nguyễn Ánh, nhưng Nam Bộ cho đến nay vẫn quen với “cơ chế thị trường” hơn miền Bắc. Có nhiều nguyên nhân lắm, song phải chăng cũng có vai trò của Nguyễn Ánh?

 

0.3  Có một huyền tích lưu hành rất dai dẳng – và còn được ghi bằng giấy mực nữa kia – là khi Nguyễn Ánh – Gia Long (năm 1801) chiếm lại được Phú Xuân – Huế từ tay triều đại Tây Sơn, đã “cướp” công chúa Lê Ngọc Hân – Bắc cung Hoàng hậu của Quang Trung làm vợ. Huyền tích ấy nay đã được giải ảo hiện thực (désenchanter le réel). Sự thực lịch sử là thế này:  

 03.1. Sau khi vua Quang Trung mất (1792), Ngọc Hân đã dời cung điện ra ở chùa Tiên gần lăng mộ Quang Trung (xem sách “Đi tìm lăng mộ Quang Trung” của Nguyễn Đắc Xuân và nhất là xem thơ Phan Huy Ích). Theo tôi, đó là vì vua Cảnh Thịnh kế nghiệp Quang Trung mới 12 tuổi (không phải là con đẻ của Ngọc Hân) cùng thái sư Bùi Đắc Tuyên (cậu của Cảnh Thịnh) rất lộng quyền, chẳng ưa gì bà Ngọc Hân xứ Bắc, nên bà đã có ứng xử “chẳng tu thì cũng như tu mới là”; cũng có thể là bà “nặng tình nặng nghĩa” với Quang Trung. Bà có với Quang Trung hai (02) người con, bà mất sớm (1799) và cả hai con bà cũng vậy (1801).  

 03.2. Cho nên không có gì xảy ra cả.

 


LÀNG NGHỀ SÀI GÒN MỘT THỦA VANG DANH

   (Người Đô Thị Xuân Giáp Thìn 2024) Nguyễn Thị Hậu Sài gòn là một đô thị từ khi khởi lập. Tính chất đô thị của Sài Gòn không chỉ ở chứ...