* PHẦN HAI
01. Luôn “trung thành” với tư duy tự ý thức rằng “Tôi không phải là
một nhà sử học chính tông”, sau đây tôi chỉ nói – và viết – đôi điều “lặt vặt”
tôi nhớ lại và cảm nhận được về vị vua khai sáng triều Nguyễn – Gia Long.
01.1. Nguyễn
Ánh đã từng bôn ba từ đất liền ra các hải đảo, Côn Lôn, Phú Quốc… Do nghiệm sinh cá nhân, tôi rất
thích những người “bôn ba”, “từng trải”… dù với ý định chủ quan gì hay là do sự
dủi dun của Trời Đất – Tự nhiên. Vị Tam Nguyên Vị Xuyên xứ Nam Hạ – Nam Hà quê
tôi Trần Bích San đã có hai câu thơ mà tôi coi là tuyệt bút, nhất là câu sau: Văn vô sơn thủy phi kỳ
khí, Nhân bất
phong sương vị lão tài ! Nghĩa
là: Văn không sông
núi, không cao diệu, Người
chẳng phong sương, khó rạng tài !
01.2. Rất gần đây, tôi được đọc bản thảo bài viết của một học giả
Mỹ, trong đó có đoạn đại ý rằng: Phụ
thân Hồ Chí Minh – Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Huy (Sắc) là một người phiêu
lãng (Wanderer), nhưng cụ mới chỉ “lãng du” ở trong nước Việt từ xứ
Nghệ xứ Huế đến xứ Thanh, xứ Bình Định rồi vô miền Nam, Sài Gòn, Sông Bé, Long
An, Sa Đéc… Có thể Nguyễn
Ái Quốc – Hồ Chí Minh cũng được “di truyền” bởi cái “gen” văn hóa phiêu lãng
(wandering) đó, nhưng “CON hơn cha là nhà có PHÚC”, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh đã phiêu lãng gần như toàn thế giới, từ Á, Âu đến Phi, Mỹ… và ông đã có dịp
“sống nghiệm” với nhiều nền văn hóa khác nhau; do đó ông đã trải
nghiệm đối sánh nhiều LỐI SỐNG (Way (s)) trên tảng nền LỐI SỐNG VIỆT NAM. Ông
giỏi ngoại ngữ mà ngôn ngữ là một sản phẩm đồng thời là một thành tố của Văn
hóa, cho nên ông trở thành người của toàn Nhân loại và ông trở nên DUNG DỊ
(Generous), rất Việt Nam và cũng rất “Thể tất”, rất “Cận NHÂN TÌNH” (Hunman
Sense). Do vậy, Wandering phiêu lãng ở ông là một GIÁ TRỊ VĂN HÓA. Thế mà đã có kẻ dám dịch
“wandering” là “lang bang, lang thang” và bảo rằng học giả Mỹ đó có dụng ý nói
xấu Cụ Hồ ! Đáng xấu hổ thay người “DỐT HAY NÓI CHỮ” hay là “HAY CHỮ LỎNG” !
01.3. Nguyễn
Ánh (Gia Long từ 1802) đã bôn ba từ đất liền đến hải đảo, từ Việt đến Xiêm,
đánh Tây Sơn bại rồi thắng to cũng có, mà đánh thắng cả Miến Điện theo yêu cầu
– có lúc là “quái ác” – của vua Xiêm cũng có. Nguyễn Ánh bẩm sinh và sinh nghiệm
là một vị tướng tài ba “thắng không kiêu, bại không nản”. Bị Xiêm rồi bị Pháp
và sau cả Thanh Mãn Trung Hoa khống chế, gây “áp lực” song Nguyễn Ánh vẫn tìm mọi
cách để “thoát ra” được sự khống chế đó và – cho dù chỉ theo ý kiến cá nhân tôi
– ông vẫn là NGƯỜI VIỆT NAM và đứng đầu một CHÍNH QUYỀN ĐỘC LẬP VIỆT NAM, cho
dù ông chịu nhiều áp lực ngoại bang và cũng có lúc phải sử dụng nhiều cố vấn
trong nước và nước ngoài. Ông nghe nhiều nhưng ông nghĩ và làm phần
nhiều theo ý ông. Từ 1815 hay về cuối đời, dù nể trọng Tả quân Lê Văn Duyệt,
ông vẫn quyết định chọn hoàng tử Đảm (vua Minh Mạng ngày sau) chứ đâu có chọn
cháu đích tông – con hoàng tử Cảnh – làm người kế vị ông. Mà Minh Mạng, thì nên
trọng nể và học tập ông về việc quản lý hành chánh đất nước và xã hội nhiều hơn
nữa, chứ trách cứ ông thì cũng dễ thôi.
01.4.
Cho dù ông tin cậy và nhờ cậy
vào giám mục Bá Đa Lộc và tỏ ra “khoan hòa” với Thiên chúa giáo của phương Tây,
cho dù hoàng tử Cảnh – trưởng nam của ông – đã trở thành giáo dân Thiên chúa
giáo, khi ở Gia Định (Nam Bộ) cũng như khi trở thành hoàng đế toàn Việt Nam,
ông vẫn tôn Nho, trọng dụng “Gia Định tam gia” người Việt gốc Hoa (Trịnh Hoài Đức,
Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh), vẫn trọng Phật, Lão và tín ngưỡng dân gian, dù
là Việt Nam, là Khơ Me, hay là Chăm, là Thượng… Đội cận vệ của Gia Long, theo sử
chép, chủ yếu là người “Thượng” (Sơn nhân). Ở thập kỷ 80, tôi đi điền dã ở xứ
Quảng, ở Tây Nguyên, các tộc “thiểu số” vẫn nhắc đến Gia Long với một niềm kính
nể. Có một thứ cây nửa trồng nửa hoang dại mang tên “Hoàng oanh quất” (quýt
vàng) quả ăn ngon, người dân tộc vẫn bảo tôi rằng đó là thứ quả cây của vùng
sơn cước đã nuôi sống Nguyễn Ánh thời khăn khó, sau này trở thành Quýt Ngự. Ấy
là tôi chưa kể “Quế Trà My”…
01.5.
Ông không chống Tây, Thiên
chúa, cũng không sùng bái quá đáng Thanh – Nho như người ta tưởng, và ông loay
hoay – tìm mà chẳng được – một HỆ Ý THỨC VIỆT NAM. Ông làm theo kiểu Việt Nam
mà chưa điều chế nổi một lối suy nghĩ (Way of thinking) Việt Nam. Chỉ sau này
Nguyễn Ái Quốc mới xây dựng được một Tư tưởng Hồ Chí Minh tương đối thuần Việt
Nam. Nhưng đó lại là một đề tài chuyên luận Triết – Sử khác, ít dính dáng đến
chủ đề ta đang bàn về Gia Long.
02. Sau 10
năm chinh chiến mà dân gian miền Nam Trung Bộ gọi là “TRẬN GIẶC MÙA” (1791-1801)
– mùa gió nồm nam, Nguyễn Ánh mới dùng đội thủy chiến THUYỀN BUỒM ra đánh Tây
Sơn – cuối cùng ông đã thắng.
02.1. Tôi
là con cháu nhà Nho nên cũng có biết câu “Bất tương thành bại luận anh
hùng”, nghĩa là “luận anh hùng, chớ kể hơn thua !”. Song, nếu tôi là nhà sử học như các quý vị Phan
Huy Lê, Nguyễn Phan Quang… khả kính, tôi cũng phải tìm cách “giải thích” lịch sử
chiến thắng của Nguyễn Ánh với Tây Sơn chứ nhỉ ? Chả
nhẽ lại chỉ dùng một thứ “chủ nghĩa Mác thô sơ” là cuối cùng NÔNG
DÂN – nếu không có một Đảng của giai cấp công nhân đô thị hiện đại lãnh đạo thì
bao giờ cũng THUA giai cấp địa chủ – phong kiến , mà dù có thắng – như Tây Sơn
đã từng thắng trước đó – thì rồi cũng bị ĐỊA CHỦ HÓA, PHONG KIẾN HÓA mà thôi !
02.2. Như tôi đã nghiệm sinh trên điền dã khắp Bắc Trung và chút
chút ở miền Nam, tôi đã thấy cả Nguyễn Nhạc và cả Bắc Bình Vương – Quang Trung
(tất nhiên cả Nguyễn Lữ nữa) đã thất nhân tâm khi các ông –
như học giả Tạ Chí Đại Trường đã dẫn ra nhiều chứng cứ (Xem Nội chiến ở
Việt Nam 1771-1801…) – ở miền Trung, chỉ để 01 chùa ở cấp huyện, ở miền Bắc
chỉ để 01 chùa ở cấp tổng. “ĐẤT VUA – chùa LÀNG – Phong cảnh BỤT” – sáng – chiều
nghe tiếng chuông chùa “chiêu mộ” để tấm lòng thư giãn, để biết thời gian trôi
chảy vô thường đã từ lâu in hằn vào tâm thức người Việt. Phá chùa, đập tượng,
nung chuông (làm tiền, làm khí giới) là làm phản lại tâm thức Việt Nam. Có lẽ
nào dân gian xứ Bắc – Đàng Ngoài vốn kính VUA (Lê) nể CHÚA (Trịnh) và sùng Phật
– Đạo, dù rất trọng Quang Trung đã vì dân mà chiến đấu và chiến thắng giặc Mãn
Thanh, thế mà bên câu ca dao “cổ” (XV): Lạy
trời cho cả gió lên, Cho
cờ vua Bình Định(2) phất (phới) trên kinh thành(3).
Lại có câu ca dao “cận đại”: Lạy
trời cho cả gió Nồm, Cho
thuyền chúa (vua) Nguyễn thắng buồm thẳng ra ! Ra… là ra Bắc. Vô là vô
(vào) Trung – Nam. Đấy là một câu ca dao thuần Bắc cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX. Đừng nên chỉ suy diễn lòng dân (XVIII-XIX) theo chủ quan “bác học” (XX),
mà nhà làm sử rất nên tham khảo Folklore, nhất là Folklore cổ – cận – dân gian.
02.3. Quân
Tây Sơn vào Nam – Nam Bộ – thì phá Cù Lao Phố (Biên Hòa hiện nay), giết hại
thương nhân Hoa kiều, vứt phá hàng ngoại bỏ ra đầy đường, sau ở Sài Gòn thì
cũng vậy; ra Trung thì tàn phá Hội An (Faifoo), 10 năm sau còn chưa phục hồi lại
được; ra Bắc thì phá Vị Hoàng, phố Hiến và có đâu chừa lắm cả Thăng Long. Khi
nho sĩ Bắc Hà – mượn lời nông dân xóm Văn Chương – để thưa kiện với chúa Tây
Sơn về việc tòa Văn Miếu – bia Tiến Sĩ bị phá thì Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã
thành thật phê vào đơn: Thôi
! Thôi ! Thôi ! Việc đã rồi ! Trăm
điều hãy cứ trách bồi vào ta ! Nay
mai dựng lại nước nhà, Bia
Nghè lại dựng trên tòa muôn gian. Thôi
cũng đừng đổ oan cho thằng Trịnh Khải (1785-1786) !
02.4. Gia
Long dù bắt đổi Thăng Long (昇 龍) từ thành phố Rồng bay thủ đô cả nước ra Thăng Long (昇 隆) – ngày thêm thịnh vượng –
thủ phủ Bắc thành và dời thủ đô cùng cả Quốc Tử Giám – Văn Miếu vào Huế thì ở
Văn Miếu Thăng Long, Gia Long vẫn cho xây một tòaKhuê Văn Các, nhỏ
thôi mà cực đẹp; và ở thành cũ hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan, ông cũng cho
xây một tòa Cột Cờ cao đẹp nhất kinh thành ngày ấy và cho đến
nay còn tồn tại ! Thế
thì kể ra cũng khó mà chê Gia Long và nghệ thuật kiến trúc Nguyễn ! Mà chê bai
làm gì nhỉ, khi chúng – với thời gian – đã trở thành cái ĐẸP, cái Di sản Văn
hóa Dân tộc – Dân gian. Huế
trở thành một Di sản Văn hóa Nhân loại – theo Quyết định của UNESCO 1993, mà hiện
nay ta rất tự hào và đang biến thành Trung tâm Du lịch Văn hóa Việt Nam là NHỜ
AI, nếu không phải là nhờ VUA – QUAN – DÂN thời Gia Long – Minh Mạng – Tự Đức
và Nguyễn nói chung ? Kính
xin quý vị Sử gia – tạm / gượng gọi là “đồng nghiệp” của tôi bơn bớt việc “chửi
bới” nhà Nguyễn – đời Nguyễn – bắt đầu từ Gia Long – đi cho tôi và dân chúng nhờ…
Và thái độ tốt nhất là xếp cả xứ Huế và Việt Nam khi ấy vào Bảo tàng Lịch sử và
coi khi đó, không gian đó như một TẤT YẾU TẤT NHIÊN của LỊCH SỬ VIỆT NAM !
02.5 Tôi những tưởng mình sẽ bị khiển trách và
“thăm hỏi" vì đã dám ghé thăm ngôi đình làng mang niên hiệu Gia Long trùng
tu mà không trình báo lãnh đạo xã. Nhưng không!, tôi được chiêu đãi một bữa bia
đã đời, vì đã được cán bộ xã đứng tựa cột đình nghe lỏm – tôi đang giảng giải
cho các cán bộ cùng đi – về nét đẹp ngôi đình làng này và tỏ ý tiếc vì bị nhà
nước bỏ quên. Nghe các nhà lãnh đạo xã quê hương Gia Long nói thêm về tình hình
xã, tôi rất mừng vì các đảng viên Gia Miêu, quê hương nhà Nguyễn đã tỏ ra có tư
duy đổi mới khi nhận nhìn vai trò lịch sử của vua Gia Long và nhà Nguyễn với
thái độ “thể tất nhân tình”, rất đậm đà bản sắc Việt Nam.
Tuy Trịnh Kiểm đã giết Nguyễn Uông, nhưng chính
sử nhà Nguyễn, kể cả Đại Nam nhất thống chí, quyển về Thanh Hóa tỉnh, mục nhân
vật vẫn chép về Trịnh Kiểm mà không hề có một lời nói xấu nào về ông tổ họ Trịnh
này. Tôi có một số bạn bè họ Trịnh đã, đang làm cán bộ cao cấp của nhà nước Việt
Nam. Tôi đưa cho họ xem bản Trịnh gia thế phả do Trịnh Cơ vâng lệnh Gia Long,
khai báo lại năm 1802.
Lời mở đầu cuốn gia phả họ Trịnh này viết rằng
khi vua Gia Long ra Bắc, ông đã cho gọi tộc trưởng họ Trịnh là Trịnh Cơ ra
Thăng Long và phán bảo rằng:
- Họ nhà ngươi và họ ta là hai họ có thâm thù
vì tổ họ ngươi đã giết tổ họ ta!
Trịnh Cơ run rẩy nghĩ rằng mình và họ mình sẽ bị
Gia Long “làm cỏ sạch gốc rễ” để trả thù như Tây Sơn. Nhưng mà không, vua Gia
Long nói tiếp:
- Nhưng họ nhà ngươi và họ ta đã từng là thông
gia – thân gia. Ta sẽ lấy tình thân gia mà đối đãi với họ ngươi. Song họ ta ở
Nam đã quá lâu, ta chẳng biết rõ gì về họ ngươi cả. Vậy ngươi hãy cung khai về
gốc gác họ Trịnh trình cho ta biết.
Trịnh Cơ mang gia phả cũ ra tham khảo và cứ
theo sự thực viết ra. Đọc xong gia phả họ Trịnh, Gia Long đã phê ban cho họ Trịnh
200 mẫu ruộng công để dựng nên Trịnh điện làm nơi thờ tự các chúa Trịnh
02.6 Khi còn ở Gia Định và mới chỉ có Gia Định
trước 1801-1802, Nguyễn Ánh – Gia Long đã vận dụng “cơ chế thị trường” và đã biến
Sài Gòn miền Nam thành nơi sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ra toàn Đông Nam Á để
đổi lấy các sản phẩm công nghiệp phương Tây, cố nhiên hàng nhập khẩu được ưu
tiên hàng đầu là vũ khí để chống lại Tây Sơn. Tôi không muốn bình luận về ý đồ
chủ quan của Nguyễn Ánh, nhưng Nam Bộ cho đến nay vẫn quen với “cơ chế thị trường”
hơn miền Bắc. Có nhiều nguyên nhân lắm, song phải chăng cũng có vai trò của
Nguyễn Ánh?
0.3 Có một huyền tích lưu hành rất dai dẳng – và còn được ghi bằng
giấy mực nữa kia – là khi Nguyễn Ánh – Gia Long (năm 1801) chiếm lại được Phú
Xuân – Huế từ tay triều đại Tây Sơn, đã “cướp” công chúa Lê Ngọc Hân – Bắc cung
Hoàng hậu của Quang Trung làm vợ. Huyền tích ấy nay đã được giải ảo hiện thực
(désenchanter le réel). Sự thực lịch sử là thế này:
03.1. Sau
khi vua Quang Trung mất (1792), Ngọc Hân đã dời cung điện ra ở chùa Tiên gần lăng
mộ Quang Trung (xem sách “Đi tìm lăng mộ Quang Trung” của
Nguyễn Đắc Xuân và nhất là xem thơ Phan Huy Ích). Theo tôi, đó là vì vua Cảnh
Thịnh kế nghiệp Quang Trung mới 12 tuổi (không phải là con đẻ của Ngọc Hân)
cùng thái sư Bùi Đắc Tuyên (cậu của Cảnh Thịnh) rất lộng quyền, chẳng ưa gì bà
Ngọc Hân xứ Bắc, nên bà đã có ứng xử “chẳng tu thì cũng như tu mới là”; cũng có
thể là bà “nặng tình nặng nghĩa” với Quang Trung. Bà có với Quang Trung hai
(02) người con, bà mất sớm (1799) và cả hai con bà cũng vậy (1801).
03.2. Cho
nên không có gì xảy ra cả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét