PHẦN MỘT
0.1.Tôi
không phải là một chuyên gia về lịch sử, đặc biệt là về nhà Nguyễn, nhưng thỉnh
thoảng tôi cũng có những nghĩ suy và thực ra là từ những năm giữa thập kỷ 70
cho đến gần đây, đầu xuân Bính Tý 1996. Tôi vẫn thường qua lại xứ Huế và viết
dăm bẩy bài về vị thế địa – văn hóa của xứ Huế và vai trò của các chúa Nguyễn,
bắt đầu từ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613) đến các vua đầu nhà Nguyễn, mở đầu
là vua Gia Long (1802-1820) và kết thúc là vua Bảo Đại (1925-1945). Tôi đã nói và viết tản mạn
nhiều vấn đề về xứ Đàng Trong, về thời Nguyễn và nhà Nguyễn.
0.2. Ông Nguyễn Khoa Điềm –
thuộc dòng họ Nguyễn Khoa nổi danh từ các chúa Nguyễn mà bà nội ông (Đạm Phương
Nữ Sĩ) là cháu nội vua Minh Mạng, sinh ra thân phụ ông là nhà Mác-xít và là một
trong những người cộng sản đầu tiên, tức Hải Triều Nguyễn Khoa Văn – đã từng
phát biểu ở trường Đại học viết văn Nguyễn Du trong dịp lễ khai giảng khóa 5
(1995-1998), rằng khi ông là tổng biên tập đầu tiên của Tạp chí Sông Hương ở một
thời chưa đổi mới lắm, ông đã cho đăng bài của tôi về “Xứ Huế và vị thế
lịch sử của Huế” và đã cùng ban biên tập tạp chí ấy tặng tôi giải thưởng
đặc biệt cho bài viết này, mà khi ấy người ta cho là một sự “xét lại” về mặt sử
học. Bởi trước đó, theo giới Sử – Văn – Triết – Mỹ chính thống của Việt Nam,
thì gần như là một sự “phủ định sạch trơn” (table rase) về thời Nguyễn và nhà
Nguyễn, trong khi đó ở bài viết ấy và những bài tiếp theo, tôi cùng với các nhà
nghiên cứu Dân tộc – Xã hội – Mỹ học như Nguyễn Đức Từ Chi, Trần Lâm Biền đã đề
nghị một cách nhìn hơi khác, tóm tắt lại là: -
Cần phân biệt thời Nguyễn, đời Nguyễn và nhà Nguyễn. - Cần phân biệt thời các chúa Nguyễn và các vua
Nguyễn. - Và trong các
vua Nguyễn, cũng cần phân biệt các vua đầu Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng
(1820-1840) và các vua cuối Nguyễn như Tự Đức (1848-1883); và ngay cả các vua
Nguyễn sau Tự Đức, cũng cần phân biệt những ông Đồng Khánh, Khải Định với những
ông vua yêu nước như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Lại càng nên phân biệt
chính trị triều Nguyễn và học thuật, trước tác và mỹ thuật của nền Quốc học
Nguyễn. Có “cộng đồng” triều đình và có các “cá thể” vua – quan nữa chứ !
1.0. Nay theo yêu cầu của
Ban tổ chức Hội nghị về vua Gia Long (1802-1820), tôi chỉ xin nói tóm tắt đôi
điều mà tôi cảm nhận được về Nguyễn Ánh – Gia Long.
1.1. Về Nguyễn Ánh: Nếu tôi nhớ không nhầm thì cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn (mà những người theo lý thuyết Mác-xít thường gọi là “Khởi nghĩa nông
dân”) bắt đầu xảy ra vào năm 1771, khi Nguyễn Huệ sau này trở thành vua Quang
Trung vĩ đại bấy giờ mới 18 tuổi, thì lúc đó Nguyễn Ánh còn kém Nguyễn Huệ ít
ra là 7 tuổi, nghĩa là mới chỉ một cậu bé con trên 10 tuổi, cháu của chúa Nguyễn
Phước Thuần. Thế mà chính “cậu bé” Nguyễn Ánh đó – sau khi chúa Nguyễn và gần
như hết thảy những nhân vật của dòng chúa đã bị họ Nguyễn Tây Sơn thủ tiêu sạch
trơn – đâu chỉ khoảng 14 tuổi, từ xứ Huế, xứ Quảng chạy vô châu thổ sông Cửu
Long và gần như là đại diện duy nhất còn lại của dòng chúa Nguyễn, đã trở thành
vị Nguyên Soái chống lại phong trào Tây Sơn đang dâng lên và lan tỏa trong toàn
quốc từ Nam chí Bắc như triều dâng thác đổ.
1.2. Tôi không bao giờ phủ định rằng phong trào Tây Sơn đã có những
công tích vĩ đại, ít nhất ở ba mặt sau đây: -
Ở Đàng Trong thì lật đổ “trào đình” của các chúa Nguyễn rồi tiến ra Đàng Ngoài
lật đổ “trào đình” của các chúa Trịnh cùng với triều Lê – mà những ông vua Lê từ
quãng đầu thế kỷ XVII trên diễn trình lịch sử đã trở thành những ông vua “bù
nhìn”, hay là các “con rối” (puppet) trong tay các chúa Trịnh. - Chiến thắng vĩ đại chống
quân xâm lược Xiêm mà đỉnh cao là trận Rạch Gầm – Xoài Mút ở Mỹ Tho (Tiền
Giang) vào cuối năm 1784 đầu 1785. Quân xâm lược Xiêm 5 vạn đã “sợ Tây Sơn như
sợ cọp” và chính là do lợi dụng việc Nguyễn Ánh cậy nhờ mà định sang chiếm đoạt
miền Nam. Nguyễn Ánh mãi mãi mang tiếng xấu “cõng rắn cắn gà nhà”,
cầu ngoại viện để giải quyết vấn đề quốc sự. -
Đại chiến thắng chống vài chục vạn quân xâm lược Thanh đầu xuân Kỷ Dậu 1789 –
mà ông vua cuối cùng của nhà Lê là Chiêu Thống đã cầu cứu. Và cũng như Nguyễn
Ánh, ông vua Lê ấy cũng mang một bộ mặt nhọ nhem trong lịch sử.
1.3. Nguyễn Ánh cùng Chiêu Thống càng lem luốc bao nhiêu trước lịch
sử thì hình ảnh Nguyễn Huệ – Bắc Bình Vương – Quang Trung càng được xem là bộ mặt
tỏa rạng và có một vai trò lịch sử lớn lao bấy nhiêu trong lịch sử Việt Nam nửa
cuối thế kỷ XVIII. Nhưng
bảo rằng Huế – Phú Xuân là do vua Quang Trung xây dựng thành một đô thị thủ đô
thì theo tôi lại là một lối viết quá đà ! Huế, với thành Lồi ở Long Thọ bờ phải
sông Hương và thành Lý Châu – sau đổi là Hóa Châu ở lưu vực sông Bồ đã trở nên
một thị thành, một cảng thị (City-Port, Nagara) – từ thời Chiêm Thành và sau đó
thời Đại Việt Huyền Trân nhà Trần (sau 1306) và sau đó nữa là Quãng Phước, Kim
Long thời chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên và Phú Xuân thời chúa Thượng Nguyễn Phước
Lan (1636-1648) và sau chót là Gia Long – Minh Mạng (trước Gia Long, Phú Xuân vẫn
chỉ là Làng Xã).
1.4. Tuy không phải là một nhà sử học chính tông, nhưng tôi
không bao giờ dám thể tất cho Nguyễn Ánh khi ông vì thế cùng lực kiệt, đã qua
giám mục Bá Đa Lộc (Evêque D’Adran) và cậu bé tí hon hoàng tử Cảnh (lúc bấy giờ
khoảng 6 tuổi) đi cầu viện các thế lực phương Tây (nhất là Pháp), đã dám cho vị
giám mục người Pháp đó toàn quyền đại diện cho nước Việt phương Nam ký với Pháp
cái gọi Hiệp ước Versailles, nhượng cho Pháp nào đảo Côn Lôn, nào cảng cửa Hàn…
để mong nước Pháp quân chủ cuối mùa (1787) cứu một nền quân chủ cũng cuối mùa nốt
của Đại Việt. Cho dù cái nước Pháp quân chủ cuối mùa ấy đã không giúp đỡ gì được
cho Nguyễn Ánh và đã được / bị cuộc cách mạng 1789-1790 xóa sổ khỏi lịch sử
phương Tây, nhưng sao chăng nữa, việc đó cũng tạo “tiền lệ” cho giới thực dân
phương Tây mà trước hết là Pháp cùng với vài thế lực Thiên chúa giáo thân (Pro)
thực dân can thiệp ngày càng sâu vào nội trị Việt Nam, và dẫn tới việc mất nước
của ta vào nửa cuối thế kỷ XIX. Ký hiệp ước, hòa ước để nhượng địa rồi “mãi
quốc cầu vinh” là những thủ đoạn hèn hạ của thực dân đầu mùa và quân
chủ cuối mùa.
1.5. Tuy sự thật lịch sử cho
tôi – và cho chúng ta – biết rõ rằng những điều khoản của Hiệp ước Versailles ấy
đã không thực hiện và sau này, khi đại diện của chính phủ Pháp đòi vua Gia Long
thực hiện hiệp ước Versailles thì vua Gia Long đã kiên quyết từ chối với lý do
rất chính đáng là: nước Pháp có thực hiện điều khoản nào của hiệp ước
Versailles đâu ! Trên đường
từ Pháp về Pondichery (Ấn Độ), giám mục Bá Đa Lộc chỉ tuyển được một số sĩ
quan, kỹ sư, kẻ “phiêu lưu” người Pháp và với một số rất ít kinh phí mua được
vài cái tàu bọc đồng – mà vua Quang Trung coi là những sự hù dọa vớ vẩn – để
mang về giúp Nguyễn Ánh. Cho nên theo tôi, cố giáo sư Trần Đức Thảo và một số
người khác đã viết hơi quá đà, rằng sự viện trợ của Pháp là một trong những
nhân tố quan trọng nhất để tập đoàn Nguyễn Ánh đã đánh bại phong trào triều đại
Tây Sơn, từ Nguyễn Nhạc đến Cảnh Thịnh – Bảo Hưng (1792-1802).
1.6. Như vậy, với những điều
viết trên, là tôi đã có một hàm ngôn rằng, sự thắng lợi của Nguyễn Ánh đối với
triều đại Tây Sơn chủ yếu là do những nguyên nhân nội sinh, và đứng
về mặt cá nhân tôi hay là của chúng ta nhỉ, cũng đáng nên “khâm phục” dù “chút
chút” – Nguyễn Ánh – một người có cá tính mạnh, từ một cậu bé con của một ông
chúa bị giết hại trong tù, gần như đã nhiều lúc không còn một mảnh giáp, không
còn một tấc đất, đã lấy lại được quyền bính trong cả nước Việt Nam từ Lạng Sơn
đến Cà Mau. Theo PGS Trần Lâm Biền, nền mỹ thuật Việt Nam chỉ có những thi pháp
kiến trúc chung từ xứ Lạng đến Gia Định thành là từ Nguyễn Gia Long.
1.7. Cho nên, cũng không phải quá đáng lắm khi linh mục Nguyễn
Phương và một số nhà sử học nước ngoài khác – từ phe XHCN (cũ) đến phe tư bản
chủ nghĩa – cho rằng Nguyễn Ánh là người trên thực tế đã thống nhất đất
nước chứ không phải là ông vua anh hùng Nguyễn Huệ – Quang Trung, mặc
dù ông vua anh hùng 3 lần vĩ đại này đã gạt bỏ những thế lực quân chủ thối nát ở
Đàng Trong, Đàng Ngoài và những lực lượng ngoại xâm đứng đàng sau những quyền lực
khốn nạn ấy. Và như vậy, xét về mặt lịch sử khách quan là đã góp phần rất lớn
vào công cuộc thống nhất đất nước(1).
1.8. Không nói gì đến ông
Nguyễn Lữ – là “thầy tu” hay là “thầy võ” – không đủ nội lực để đối địch với
Nguyễn Ánh ở miền Nam, chỉ nói đến ông anh Nguyễn Nhạc xuất thân “nậu nguồn” và
ông em Hồ Thơm (Nguyễn Huệ) thì, do sự chia rẽ ngay trong nội bộ gia đình, mà
theo tôi “ghê tởm” nhất là ông anh cả Nguyễn Nhạc đã vì sự thỏa mãn nhỏ nhen được
làm Trung ương Hoàng đế ở thành Trà Bàn, rồi vì ghen tị và “chãnh chọe” với em
sau vụ Bắc Bình Vương “xóa hận sông Gianh” tiến ra Thăng Long, đã vội vã ra Bắc
kéo em về, rồi lại hãm hiếp cô em dâu – vợ Nguyễn Huệ – tạo mối thù hận khôn
nguôi và chiến tranh giữa hai anh em, khiến dưới triều Tây Sơn có một ông hoàng
đế ở Quy Nhơn và một ông hoàng đế ở Phú Xuân. Vậy làm sao có thể nói được là nước
ta đã được thống nhất ngay dưới thời Tây Sơn ? Đó là một “lập trường giai cấp”
máy móc đang chuyện nọ (chống ngoại xâm) “xọ chuyện kia” (chống quân chủ Nguyễn
– Trịnh).
1.9. Ở đây có một vấn đề thuộc phương pháp luận sử học cần được
làm sáng tỏ là: Lịch sử bao giờ cũng có một sự gián cách giữa lịch sử – thực tại
(Histoire – Réalité) và lịch sử nhận thức (Histoire – Conscience). Mà cái lịch
sử nhận thức thì luôn gắn liền với chủ quan nhà sử học – nhưng trách nhiệm và bổn
phận của nhà sử học chân chính là luôn luôn cần cố gắng có cái nhìn khách quan
đến mức cao nhất. Mức cao nhất đó là như các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam cuối
thế kỷ XX nói: Hơn ai hết là nhà sử học cần “nhìn thẳng vào sự thật !”,
nói đúng sự thật, và giải thích một cách khoa học cái sự thật khách quan ấy. Vẫn
theo tôi, “tâm thức tiểu nông” Việt Nam là nền tảng tinh thần của nền “dân chủ
làng xã”, của sự đồng dạng văn hóa (Cultural Identity) ở cấp văn hóa xóm làng Đại
Việt – Việt Nam một thời. Thống nhất rồi chia rẽ, đó là “trách nhiệm lịch sử” của
cấu trúc quân chủ Phật giáo (Lý – Trần), rồi quân chủ Nho giáo (Lê – Nguyễn). Lịch
sử chính trị và lịch sử văn hóa, có cái CHUNG và cũng có cái RIÊNG. Quy mọi thứ
vào chính trị hay vào kinh tế là cái nhìn (Point of view) đã “lỗi thời” (Over
time) lâu rồi, quá lâu rồi !
(ST - Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét