Nguyễn
Thị Hậu
Trên con đường dẫn ra ngoại ô của thành
phố P. có một đoạn đường mà bên kia là nhà tù còn bên này có một khách sạn nhỏ
và quán cà phê.
Nhà tù ngăn cách với bên ngoài bằng bức
tường gạch không cao lắm nhưng chắc chắn, phía trên không có những vòng thép
gai hay mảnh thủy tinh như thường thấy ở nhiều nhà tù khác. Góc hai bức tường gặp
nhau là một “cổng giả” hình vòm cuốn, phía trên có dòng chữ “Nhà tù trung tâm” bằng kiểu chữ nghiêm
ngắn màu xám, sự khác biệt duy nhất trên bức tường dài màu nâu sẫm cho biết chức
năng của các tòa nhà bên trong mà mới nhìn trông giống như một chung cư bình
dân.
Khách sạn là tòa nhà cũ có 3 tầng, những
cửa sổ bằng gỗ sơn màu xanh cũ kỹ nhưng sạch sẽ, luôn rộng mở, cửa kính trong
veo phất phơ rèm trắng, chậu hoa tươi tắn trên bệ cửa sổ. Tầng trệt là quán cà
phê cũng là sảnh khách sạn. Dưới bảng hiệu có dòng chữ trình bày kiểu cọ vui mắt
“Bên này thì vui hơn bên kia”. Ai đi
qua nhìn thấy mấy chữ này cũng phải mỉm cười, ờ thì đúng rồi... Không biết nhà
tù và quán cà phê cái nào có trước, chỉ biết là cả hai đã hiện diện từ khi nơi
này còn là một làng nhỏ giữa cánh rừng thưa, xe ngựa đi gần ngày đường mới tới
trung tâm thành phố. Nhưng khách sạn thì chỉ có khi một sân bay được xây gần
đó.
Dân cư quanh vùng đã quen với cổng nhà
tù có con đường nhỏ thỉnh thoảng vài chiếc xe bịt bùng ra vào. Nhìn vào chỉ thấy
barie trạm gác, vườn hoa và hàng cây cao vút, xa hơn là những ô cửa sổ của mấy
dãy nhà nhiều tầng mỗi tối sáng đèn đến khoảng 9g thì đồng loạt tắt. Xung
quanh, bên ngoài bức tường là con đường nhỏ xanh mát, hàng ngày người lớn trẻ
nhỏ vẫn đi lại trên vỉa hè, chiều tối dưới lòng đường hàng dài xe hơi đậu qua
đêm. Thỉnh thoảng một nhóm hoặc vài người mặc thường phục từ phía trong đi ra.
Qua khỏi cổng họ ôm hôn nhau và chia tay. Có người được người thân đến đón bằng
xe hơi nhưng phần lớn bọn họ đi đến bến xe bus gần đó hoặc đi xa hơn đến ga
metro, họ tách ra đi một mình, lơ đãng ngắm nhìn đường phố hoặc cắm cúi đi
nhanh. Sau vài phút lao xao nơi này trở lại yên tĩnh.
Một buổi sáng có một người từ cổng nhà
tù đi ra, đứng tần ngần ở cổng rồi chậm rãi đi ngược qua bên kia đường. Đó là
người đàn ông nhìn qua khó đoán tuổi, vóc dáng cao ráo, mái tóc bạc trắng nhưng
gương mặt còn khá tinh nhanh, có lẽ ông chưa đến tuổi 60. Trong bộ quần áo vừa
vặn, còn mới, là mode của khoảng mươi
năm trước, ông bước vào quán cà phê bằng bước chân nhẹ nhàng có gì đấy đầy cẩn
trọng. Đến bên chiếc bàn cạnh cửa sổ, trong tích tắc ông quyết định ngồi xuống
chiếc ghế nhìn về phía cửa. Ông gọi một tách cà phê, mở tờ báo ai đó để trên
bàn ra đọc... Khi cà phê được mang đến, ông ngẩng lên nhìn quanh rồi dừng lại ở
chiếc đồng hồ treo phía sau quầy hàng.
Trên tay ông không đeo đồng hồ như nhiều
người đàn ông khác, cũng không thấy ông có điện thoại như mọi người bây giờ. Ông
chăm chú nhìn chiếc đồng hồ cổ đang tích tắc với con lắc đong đưa đều đặn, vẻ mặt
thoáng buồn... Chậm rãi uống cà phê, ông cầm miếng đường nhỏ ngắm nghía rồi bỏ
vào miệng, ngậm một chút và nhai ngon lành như một cậu bé. Nụ
cười thoáng qua làm ông trẻ hẳn ra. Tách cà phê đã hết, tờ
báo cũng đã được đọc đi đọc lại... Như đã quen với những vị khách như thế, người
phục vụ mang đến một tờ tạp chí và chai nước lạnh. Ông khẽ cám ơn và lại chăm
chú đọc...
Thời gian chậm chạp trôi qua... quán cà
phê có khách rồi lại vắng khách. Người đàn ông vẫn ngồi đọc tờ tạp chí mà không
ngẩng lên lần nào như không muốn ai nhìn thấy mình. Khi chiếc đồng hồ buông tiếng
chuông báo 12 giờ người khách giật mình dợm đứng dậy, nhưng cũng rất nhanh ông
sựng lại, ngồi yên trên ghế, hai tay ông từ từ ôm lấy mặt như bị một cơn choáng
bất ngờ. Đây là tiếng chuông ông đã chờ đợi nhiều năm…
ngay lúc đó một người phụ nữ bước vào quán cà phê.
Người phụ nữ đứng tuổi thân hình mảnh
mai, nước da hơi khô phủ một lớp phấn mỏng để che bớt gương mặt xanh xao. Mái
tóc xoăn xoăn trước trán, đôi mắt to đượm buồn còn
giữ được nét đẹp của thời thanh xuân. Chị bước nhanh về phía ông gần như nhận
ngay ra ông, và lao vào vòng tay ông khi ấy vừa kịp đứng lên.
Họ ngồi đối diện, im lặng, tay đan vào
nhau. Ông hôn mãi những ngón tay gầy của chị. Còn chị cứ áp bàn tay ông vào đôi
má nóng bừng như đang sốt của mình... Rất lâu, họ vẫn không nói gì. Rồi đồng hồ điểm chuông... rồi lại vội vã điểm chuông. Chị chợt tỉnh, chậm rãi đứng
lên như hết hơi hết sức... Ông bước đến ôm siết đôi vai chị đang run lên rồi gần
như ông đẩy chị ra khỏi vòng tay mình và ngồi phịch xuống ghế, quay đầu nhìn ra
cửa sổ. Ngoài đó... một chiếc xe hơi vừa lướt qua. Trưa tháng bảy nắng đến nhòa
mắt...
Đến lúc cũng phải đi thôi. Qua quầy hàng
ông nghiêng mình cám ơn một cách trịnh trọng và tự nhiên như một quý ông... Đứng
dưới bảng hiệu quán cà phê “Bên này thì
vui hơn bên kia” ông nhìn sang “Nhà
tù trung tâm”. Có lẽ phải ngược lại mới đúng. “Bên kia” là nơi ông đã gửi lại
gần cả cuộc đời nhưng “bên này” lại là nơi tuổi trẻ vừa rời xa ông, mãi mãi...
***
Tôi được nghe chính người phục vụ quán
cà phê kể câu chuyện này trong lần đến P. vừa rồi. Bây giờ anh không còn làm ở
đấy nữa, quán cà phê và khách sạn đã đóng cửa. “Bên này” đang xây dựng một siêu
thị nhưng nhà tù thì vẫn ở “bên kia”.
Thật thế, anh nói, chẳng biết bên nào
vui hơn... Khi hiện diện trong cuộc đời này là chúng ta đã ở trong một thế giới
cũng chật hẹp và nhiều ràng buộc như phía “bên kia”. Chỉ khi nào số phận đã “hết
hạn” ta sẽ trở về một nơi nào đó, như “bên này”... Biết đâu sẽ vui hơn…
Sài
Gòn tháng 18.8.2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét