Quê tôi ở miền Tây. Còn tôi sống ở Sài Gòn.
Quê ngoại tôi chỉ cách quê nội một nhánh Tiền Giang nối liền
nhau bằng bến đò Mỹ Hiệp, xưa ghe chèo nay là chiếc phà có thể chở xe tải nhẹ
hay xe hơi 16 chỗ. Mỗi ngày hàng chục lượt phà qua lại nối liền Cù Lao Giêng với
thành phố Cao Lãnh, dân cù lao buôn bán quanh năm hay chợ búa hàng ngày từ lâu
đã quen thuộc với thị tứ bên này. Nhiều gia đình kết sui gia với nhau, ngày rước
dâu chiếc phà rực rỡ sắc màu chạy trên sông, lẫn trong tiếng máy nổ đều đều là
tiếng nhạc rộn rã và tiếng con nít chỉ trỏ í ới...
Những đám rước dâu, đưa dâu trên sông gợi nhớ bài hát “Ngẫu
hứng Lý qua cầu” của nhạc sĩ Trần Tiến. Người nhạc sĩ tài hoa của Hà Nội đã cảm
nhận được sự bình dị và lời ăn tiếng nói của người miền Tây để chuyển thành những
câu ca nghe chạm vào tận đáy lòng “bằng
lòng đi em về với quê anh, một cù lao xanh một dòng sông xanh… Đóa hoa tím trôi
líu riu, dòng sông nước chảy líu ríu… anh thấy em nhỏ xíu anh thương… Những
đêm ngắm sông nhớ em buồn muốn khóc…”. Có một thời tôi đã thầm nghĩ, nếu có
ai đó chỉ cần nói với mình một câu giản dị “anh thương em” thì mình sẽ bỏ tất cả
mà theo. Lúc đó tôi còn chưa hiểu vì sao chữ “thương” của người miền Tây lại
làm mình nao lòng đến thế.
Sau này, mỗi lần về quê hay đi công tác miền Tây là
đi qua vô số những cây cầu dọc theo quốc lộ, nhìn những con sông, dòng kinh,
con rạch… xanh mướt hai bờ, ghe xuồng xuôi ngược, chợ búa ở đầu cầu tấp nập,
trái cây rau cải tôm cá tươi chong… Bỗng thấy thương quê mình gì đâu! Mới hiểu,
chữ thương của miền Tây ngọt ngào, nặng
tình nặng nghĩa biết bao, bởi vì thương
không chỉ là thương yêu cha mẹ anh em, mà còn là thương nhớ người dưng, thương xót thân phận ghe xuồng trên sông, thương những gì gắn bó cả đời như thương
chính mình.… Chữ thương bao dung và nhân hậu, nhẹ như hơi thở mà người miền Tây chỉ
buông ra khi dằn lòng không được …
Về miền Tây thương đất hè nắng nứt, thương đất vàng phèn mặn,
thương những dòng sông mùa nước nổi mang phù sa về tưới tắm cho những cánh đồng
lúa mới, mang cá tôm về làm mắm làm khô nuôi sống dân miền Tây trong những
tháng mùa khô sau đó; thương những mái nhà lá lô nhô trong nước, thương đồng
lúa chín gặt vội chạy cho kịp mùa nước nổi, thương bầy trâu lặn lội mùa “len”,
thương đàn vịt đồng ốm nhom mùa nắng tới…
Về miền Tây thương con nước ngày hai lần nước lớn cho ghe xuồng
đi xuống miệt ruộng vùng sông Hậu, nước ròng cho ghe xuồng đi lên miệt vườn
trên những cù lao sông Tiền. Mùa nước nổi có xuồng “năm quăng” giúp bà con sinh
sống. Thương chiếc xuồng len lỏi theo những rạch, tắt, cựa gà… khuất vào đám dừa
nước rậm rạp rồi chợt hiện ra nhỏ nhoi đơn côi trong tiếng “bìm bịp kêu nước lớn
anh ơi…”. Thương những chiếc ghe thương hồ từ nhiều đời miệt mài xuôi ngược
“buôn bán không lời chèo chống mỏi mê”…
Về miền Tây thương những xóm làng nghèo khó mà ấm áp tình
người. Trưa vắng vẳng tiếng gà gáy lao xao trong vườn, ngọn khói bếp vẩn vơ
trên tán xoài, cầu dừa chông chênh cô thiếu nữ thoát thoắt bước qua. Chiều xuống
những bến nước ven con rạch ồn ào trẻ nhỏ, đờn bà giặt đồ trên chiếc cầu tre, đờn
ông chạy ào xe máy trên đường mòn, bất
chợt nghe tiếng ai kêu dừng lại gạt chân chống để đó ghé vô, có khi tới khuya mới
quay ra, xiêu xiêu lên xe chạy tiếp về nhà…
Về miền Tây thương những con đường giữa bóng xoài bóng dừa
mát rượi, thương hàng rào bông bụt nhà ai đỏ vàng rực rỡ, thương dàn bông giấy
màu trắng tím đỏ ngời lên trong nắng hạn làm lóa ánh mắt người qua… Về miền Tây
thương nhà sàn lô nhô trên kênh rạch, thương bếp cà ràng đỏ lửa trên ghe,
thương lò trấu trong gian bếp gọn gàng như những người đờn bà miền Tây vén
khéo.
Về miền Tây thương ngôi chợ nhỏ đầu làng, sương sớm còn mờ
đã lao xao mua bán, đến nửa buổi thì nhà lồng chỉ còn vài hàng cây trái. Thương
chợ ngã năm ngã bảy trên sông ghe xuồng san sát, những chiếc sào cột các loại
trái cây rau cải lơ lửng trên cao, ghe tạp hóa xanh đỏ đồ dùng, ghe than ghe
chiếu giờ đã ít người mua kẻ bán… Thương phố chợ nhỏ mà cột antena san sát như
đàn chuồn chuồn báo hiệu trời mưa, nhà cao tầng ngói đỏ ngói xanh, tiệm uốn
tóc, tiệm vàng, tiệm thời trang… chẳng khác gì thành phố.
Về miền Tây thương những chành gạo ven sông, xà lan ghe lớn
ghe nhỏ vào mùa gặt tụ họp về đêm ngày trên bến, những băng chuyền thay sức người
tải gạo lên kho xuống ghe không dứt. Thương những lò gạch tròn như tổ tò vò khổng
lồ in bóng xuống dòng sông. Những con sông dòng kinh như những mạch máu nuôi sống
miền Tây.
Về miền Tây thương rừng tràm rừng đước xanh bạt ngàn miệt U
Minh nước đỏ. Đêm Năm Căn câu vọng cổ nghe buồn chí xứ “chiếu này tôi chẳng bán đâu, tìm cô không gặp… tôi gối đầu mỗi đêm…”.
Thương những Bãi, Bàu, Bắc, Bến, Bưng, Cái, Cầu, Cồn, Cù lao, Cửa, Đầm, Đồng,
Gành, Hòn, Hố, Láng, Lung, Mũi, Mương, Rạch, Tắc, Vàm, Vũng, Xẻo… nghe giản dị mà
gợi hình gợi cảnh.
Về miền Tây thương đám lục bình bông tím mong manh trôi xuôi
ngược trên sông. Lúc nước ròng thì tấp vô như tìm chút hơi ấm của bờ đất mẹ,
khi nước lên lại bơ vơ dập dờn trên mặt nước. Bông lục bình đẹp như em gái miền Tây, chơn chất, hiền lành, biết
lo toan cho gia đình cha mẹ, khi em phải lấy chồng xa xứ khác nào số phận lục
bình trôi… Chỉ mong mỗi ngôi nhà và những người đờn ông miền Tây sẽ là những bè
tầm vông chắn sóng chắn nước cho giề lục bình bông tím mong manh đừng trôi xa,
bình yên ở lại bờ bến quê nhà.
Về
miền Tây thương những gian bếp có máng xối hứng nước mưa vào hai hàng lu mái. Sân
nhỏ trước nhà lác đác lá khô của cây mận hồng đào. Thương từng chùm trái đỏ
rực, lúc lỉu trên cành vào mùa Tết, thương mỗi đêm gió chướng nghe trái cây
ngoài kia rơi lộp bộp, thương bầy trẻ con tranh nhau lượm những trái mận chín
rụng, giòn và ngọt như đường phèn.
Về miền Tây thương những giọng hò ơ lai láng trên sông,
thương câu vọng cổ thổn thức đêm đêm, thương bài đờn ca tài tử những ngày giỗ
chạp, thương những “hẹn, hò”, “giỗ, quảy”… Về miền Tây thương người dưng buông
câu “anh thương em” để trái tim lỗi nhịp, thương em gái nghẹn ngào “em thương ảnh,
chị ơi…” nặng đến thắt lòng… Chỉ một tiếng “thương” thôi mà miền Tây đã níu giữ
bao người ở lại, bao người đã đi rồi còn quay trở lại.
Về miền Tây thương những cửa sông rộng mênh mông, từng là
con đường dẫn ông cha đi tìm đất khẩn hoang lập ấp. Thương vùng biển bồi bùn
nâu nước lợ, mắm trước đước sau lấn
biển, cả ngàn năm mũi Cà Mau dày thêm từng thước đất.
Về miền Tây thương những con người bao đời khó nhọc, nói
“làm chơi ăn thiệt” vì không hay than thở, nói “làm đại đi” vì can đảm dám chịu
trách nhiệm về việc mình làm. Thời thế nào cũng có những người “giữa đường thấy
sự bất bằng chẳng tha”, “đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”, dù sau đó có phải chịu
nhiều oan khuất…
Về miền Tây…
Thương...
Tản văn, Nguyễn Thị Hậu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét