Trích phần 3 của bài đăng trên tạp chí Di sản văn hóa số 3(15) 2023
3. Bảo
tồn và phát triển nghệ thuật gốm Chăm ở Bàu Trúc trong bối cảnh kinh tế - xã hội
mới
3.1 Xác định những “ADN của làng gốm Chăm Bàu
Trúc”.
Di sản văn hoá Việt Nam là
tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản
văn hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của
nhân dân ta.[1]
Chính vì vậy, cộng đồng là chủ thể sáng tạo, lưu giữ, trao truyền và phát triển
di sản văn hóa nói chung, di sản văn hóa phi vật thể - các nghề truyền thống
nói riêng.
Nghệ thuật làm gốm truyền
thống của người Chăm làng Bàu Trúc được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào
Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2017. Đến nay Nghệ thuật làm gốm
truyền thống của người Chăm đã được UNESCO đưa vào “Danh sách di sản văn hóa
phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp”. Cần lưu ý là chỉ trong 5 năm nghề làm gốm của
người Chăm vừa được tôn vinh trong nước và trên thế giới, đồng thời cũng được đưa
vào tình trạng cảnh báo sự suy giảm và biến mất của một nghề thủ công truyền thống.
Chính vì vậy, cần phải có những giải pháp khẩn cấp và lâu dài, các biện pháp
thiết thực và hiệu quả nhằm bảo tồn, vực dậy sức sống của di sản Gốm Chăm, tạo
thêm nguồn lực cho bảo tồn và phát huy giá trị di sản, hỗ trợ phát triển kinh tế,
văn hóa theo hướng bền vững ở địa phương và cộng đồng dân cư.
-
Gắn liền với cộng đồng Chăm làng Bàu Trúc
-
Sản xuất thủ công truyền thống từ nguyên liệu địa
phương
-
Sản phẩm phản ánh văn hóa Chămpa.
Đây là ba ADN tạo nên bản sắc và dấu ấn riêng của Gốm Bàu
Trúc. Nếu thiếu những ADN này
thì gốm Bàu Trúc sẽ mất đi lợi thế trong quảng bá và cạnh tranh ở thị trường
trong và ngoài nước. Để bảo tồn nghề gốm Chăm làng Bàu Trúc thì cần bảo vệ những
yếu tố tác động tích cực đến việc duy trì những ADN, đồng thời loại bỏ hoặc hạn
chế những yếu tố tác động tiêu cực làm sự thay đổi hoặc biến mất những ADN.
Cấu trúc, tổ chức và những điều kiện
sinh sống của cộng đồng người Chăm làng Bàu Trúc cần giữ được sự ổn định, tránh
sự thay đổi nhanh, lớn về dân cư. Không chỉ là tăng dân số (không thuộc cộng đồng
người Chăm) mà còn là giảm dân số hay tình trạng “dân số già”, mà trường hợp phổ biến là những người trẻ đi
làm ăn và sinh sống ở nơi khác. Cùng với đó là tình trạng thế hệ trẻ không muốn
tiếp nhận nghề truyền thống nhất là như một sinh kế. Tình trạng này làm cho khả
năng lưu giữ và trao truyền nghề giảm sút và có nguy cơ thất truyền.
3.2 Bảo tồn làng gốm
Chăm “từ bên trong/bên dưới”
Quá trình đô thị hóa là một
trong những nguyên nhân tác động vào cấu trúc và tình trạng dân cư của các làng
nghề. Không chỉ vậy, đô thị hóa còn làm thay đôi môi trường và những điều kiện
tự nhiên cung cấp nguyên liệu cho làng nghề làm gốm: diện tích nguồn nguyên liệu
bị thu hẹp hoặc không thuộc về cộng đồng (chuyển đổi mục đích sử dụng, chuyển
quyền sử dụng cho nhà đầu tư). Khi không còn nguồn nguyên liệu hoặc khai thác
khó khăn, làng nghề hoặc phải nhập nguyên liệu từ nơi khác, hoặc thu hẹp sản xuất
về quy mô và mức độ.
Ngược lại, khi nhu cầu sản
phẩm tăng cao, nhất là với những sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu của đời sống
đương đại thì quy mô sản xuất được mở rộng, kỹ thuật sản xuất có xu hướng thay
đổi “hiện đại hóa”, như làm gốm bằng bàn xoay và nung gốm trong lò chẳng hạn. Yếu
tố kỹ thuật mới phù hợp sản xuất hàng loạt, có phần giảm thiểu tỷ lệ phế phẩm,
tăng năng xuất… Nhưng sẽ làm biến mất tính chất “thủ công, đơn chiếc” từ quá
trình nặn tay và nung thô sơ ngoài trời. Đồng thời, vai trò của người thợ tạo
dáng – phụ nữ - sẽ mất đi vị thế quan trọng trong quá trình sản xuất gốm. Một
trong những điều hấp dẫn của nghề làm gốm Chăm, một biểu trưng văn hóa “mẫu hệ
Chăm” sẽ mai một.
Có thể tăng năng xuất và
quy mô sản xuất đồ gốm mà không làm thay đổi tính chất thủ công truyền thống được
không? Có thể được! Bằng cách thay thế máy móc, phân công lao động, chuyên môn
hóa một số công đoạn trong quy trình làm gốm như công đoạn khai thác và xử lý
nguyên liệu, ủ và nhào trộn nguyên liệu. Còn các công đoạn khác thì cần được bảo
tồn, nhất là nặn gốm bằng tay và nung ngoài trời.
Một phương thức khác: duy
trì kỹ thuật thủ công truyền thống cho những sản phẩm mỹ nghệ độc bản hoặc theo
đơn đặt hàng. Giá thành tất nhiên sẽ cao để đảm bảo chất lượng của sự khác biệt.
Còn những sản phẩm khác có thể sản xuất hàng loạt để giảm giá thành và phổ biến
rộng rãi kiểu “hàng chợ”. Tuy nhiên, điều quyết định để tồn tại và phát triển
là là sản phẩm vẫn phải có sự khác biệt, độc đáo!
Đây chính là ADN thứ ba:
thể hiện bản sắc cộng đồng Chăm, của văn hóa Chămpa. “Nghệ thuật làm gốm truyền
thống của người Chăm” là sự tích hợp của tất cả các yếu tố: chủ nhân, không
gian và văn hóa Cham. Quan trọng nhất, nếu không thể hiện được những yếu tố của
“văn hóa Champa” từ truyền thống đến hiện đại thì nghề gốm, làng gốm Chăm sẽ
mãi ở tình trạng “bảo vệ khẩn cấp”.
Để bảo toàn “tính bản địa”
thì với nghề làm gốm Chăm, trước mắt là cần sự đầu tư tri thức từ các nghệ
nhân, họa sĩ, nhà thiết kế… để có những mẫu mã, chủng loại sản phẩm mang đậm bản
sắc “văn hóa Chăm” nhưng vẫn đáp ứng nhu cầu của thị trường, hay cao hơn, tạo
ra những sản phẩm hấp dẫn thị trường. Hiện nay, việc đào tạo nghề gốm phải được
coi là cấp thiết nhất. Song song với việc duy trì lễ hội thờ cúng ông tổ nghề gốm,
cần bắt đầu ngay từ giáo dục lịch sử địa phương về giá trị và ý nghĩa những di
sản văn hóa Champa, đào tạo kỹ năng các nghề thủ công (làm gốm, dệt thổ cẩm) tại
các trường dạy nghề chuyên nghiệp. Đặc biệt là vai trò của các nghệ nhân “truyền
dạy” tại cơ sản sản xuất. Cần thiết liên kết chặt chẽ với các ngành nghề liên
quan như mỹ thuật công nghiệp, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử - văn
hóa… Có vậy những người thợ gốm mới phát triển khả năng sáng tạo lâu dài. Đồng
thời khắc phục tình trạng thế hệ thợ gốm trẻ kế tiếp đang ngày càng ít do chưa
hiểu biết đến nơi đến chốn về giá trị (lịch sử, văn hóa, kinh tế) của nghề gốm
(truyền thống kết hợp với hiện đại).
3.3 Bảo tồn làng gốm
Chăm “từ bên ngoài/ bên trên”
Để nghề gốm truyền thống
có thể tồn tại và phát triển, quan trọng nhất là quan
điểm, chủ trương và định hướng của chính quyền tập trung phát triển nghề gốm,
thể hiện từ Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến quy hoạch các
lĩnh vực, ngành nghề. Tại địa phương ngành Công thương phối hợp với ngành
Văn hóa, Du lịch liên kết chặt chẽ tạo điều kiện cho nghề gốm truyền thống phát
triển: đề xuất và triển khai các chính sách hỗ trợ như tăng cường hoạt động xúc
tiến thương mại, tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ các doanh nghiệp ngành gốm
tham gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước nhằm mở rộng thị trường xuất
khẩu; xây dựng điểm du lịch cộng đồng - làng nghề, thống nhất quan điểm Nghề gốm
là một tài nguyên văn hóa bản địa, là di sản văn hóa có vai trò quan trọng
trong phát triển bền vững.[2]
Trong thời kỳ công nghiệp
4.0 phát triển tài nguyên bản địa nói chung và các nghề thủ
công truyền thống nói riêng không thể tách rời sự đầu tư trí thức và công
nghệ liên quan từ sản xuất, chế biến đến quảng bá, tiêu thụ, xuất khẩu… Nếu không có tri thức và công nghệ mới hỗ trợ thì tài nguyên dù giàu có
đến đâu cũng vẫn chỉ ở dạng “tiềm năng”, thậm chí còn làm trở ngại cho thay đổi
tư duy phát triển bền vững.
Theo một chuyên gia, “tính bản địa” là một
trong bảy từ khóa quan trọng nhất đối với người tiêu dùng thế kỷ 21 (tiết kiệm,
bền vững, công nghệ, bản địa, sức khỏe, đơn giản, tự do) [3]. Chú trọng tính bản địa (tài nguyên, tri thức,
văn hóa) để phát triển bền vững, thích nghi với biến đổi khí hậu, xây dựng xã hội
nhân bản. Tài nguyên bản địa luôn có tiềm năng trở thành sản phẩm mang giá trị
văn hóa cao. Từ sản phẩm kinh tế có thể trở thành di sản văn hóa nếu tính bản địa
được coi trọng cùng với sự đầu tư tri thức, công nghệ và nguồn lực ngay từ bước
đầu khởi nghiệp.
Để duy trì và mở rộng quy mô sản xuất, để sản
phẩm mang tính bản địa, bản sắc cộng đồng thì việc đầu tiên là nên
chăng, sản phẩm của địa phương cần được ưu tiên sử dụng tại địa phương. Sản phẩm
gốm và thổ cẩm của đồng bào Chăm Ninh Thuận nên được sử dụng phổ biến trong tỉnh,
tại các công sở, nhà hàng, khách sản, công trình công cộng khác như bệnh viện,
trường học… Sản phẩm còn có thể sử dụng làm quà biếu tặng, lưu niệm có giá trị.
Điều này không phải là “độc quyền” sản phẩm mà là sự đánh giá cao một sản phẩm
kinh tế của địa phương, thể hiện hiểu biết giá trị và bản sắc văn hóa riêng của
tỉnh nhà. Tất nhiên, với mỗi không gian, đối tượng sử dụng khác nhau sản phẩm gốm,
thổ cầm cần có chất lượng cao, mẫu mã thích hợp và mang tính mỹ nghệ cao, vừa
truyền thống nhưng không thể thiếu tính hiện đại.
Trong chuyến công tác tại
Ai Cập gần đây, tôi được nghe nhiều lần từ những hướng dẫn viên, nhà nghiên cứu,
nhà quản lý người Ai Cập… một quan điểm xuyên suốt và nhất quán của Bộ Du lịch
và Di sản Ai Cập: “Di sản văn hóa là sản phẩm có lợi thế cạnh tranh hấp dẫn nhất
trong tất cả các sản phẩm mà Ai Cập có thể cung cấp trên toàn cầu”. Ở một mức độ
nào đó, tôi cho rằng di sản văn hóa phi vật thể nghệ thuật Gốm Chăm và những di
sản văn hóa của VN cũng cần được xác định và đánh giá như vậy. Đến với thế giới
bằng những di sản mang bản sắc riêng độc đáo chứ không phải bằng những thứ “di
sản sao chép”, có vậy mới bảo tồn được di sản của chính mình và phát triển bền
vững từ tài nguyên văn hóa.
[1]
Luật Di sản văn hóa Việt Nam 2001 và
2013
[2]
Nguyễn Thị Hậu, 2023, Gốm Cây Mai -
Gốm Sài Gòn: Truyền thống và phát triển. ). Kỷ yếu HTKH Nghề gốm cổ Ninh Bình:
Truyền thống và Hiện đại. Ninh Bình 4.2023. Tr. 9
[3]
Nguyễn Phi Vân, 2017. Chuyên gia
thương hiệu Nguyễn Phi Vân: Bảy từ khóa đối với người tiêu dùng tương lai. https://theleader.vn/chuyen-gia-thuong-hieu-nguyen-phi-van-bay-tu-khoa-doi-voi-nguoi-tieu-dung-tuong-lai-20170808085431712.htm