LÀNG GỐM BÀU TRÚC (NINH THUẬN) BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI MỚI

 Trích phần 3 của bài đăng trên tạp chí Di sản văn hóa số 3(15) 2023

3. Bảo tồn và phát triển nghệ thuật gốm Chăm ở Bàu Trúc trong bối cảnh kinh tế - xã hội mới

 3.1 Xác định những “ADN của làng gốm Chăm Bàu Trúc”.

Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.[1] Chính vì vậy, cộng đồng là chủ thể sáng tạo, lưu giữ, trao truyền và phát triển di sản văn hóa nói chung, di sản văn hóa phi vật thể - các nghề truyền thống nói riêng.

Nghệ thuật làm gốm truyền thống của người Chăm làng Bàu Trúc được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2017. Đến nay Nghệ thuật làm gốm truyền thống của người Chăm đã được UNESCO đưa vào “Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp”. Cần lưu ý là chỉ trong 5 năm nghề làm gốm của người Chăm vừa được tôn vinh trong nước và trên thế giới, đồng thời cũng được đưa vào tình trạng cảnh báo sự suy giảm và biến mất của một nghề thủ công truyền thống. Chính vì vậy, cần phải có những giải pháp khẩn cấp và lâu dài, các biện pháp thiết thực và hiệu quả nhằm bảo tồn, vực dậy sức sống của di sản Gốm Chăm, tạo thêm nguồn lực cho bảo tồn và phát huy giá trị di sản, hỗ trợ phát triển kinh tế, văn hóa theo hướng bền vững ở địa phương và cộng đồng dân cư.

Từ ba hướng tiếp cận và từ quá trình lịch sử có thể nhận thấy làng gốm Bàu Trúc có ba đặc trưng cơ bản, quan trọng nhất:

-       Gắn liền với cộng đồng Chăm làng Bàu Trúc

-       Sản xuất thủ công truyền thống từ nguyên liệu địa phương

-       Sản phẩm phản ánh văn hóa Chămpa.

Đây là ba ADN tạo nên bản sắc và dấu ấn riêng của Gốm Bàu Trúc. Nếu thiếu những ADN này thì gốm Bàu Trúc sẽ mất đi lợi thế trong quảng bá và cạnh tranh ở thị trường trong và ngoài nước. Để bảo tồn nghề gốm Chăm làng Bàu Trúc thì cần bảo vệ những yếu tố tác động tích cực đến việc duy trì những ADN, đồng thời loại bỏ hoặc hạn chế những yếu tố tác động tiêu cực làm sự thay đổi hoặc biến mất những ADN.

 Cấu trúc, tổ chức và những điều kiện sinh sống của cộng đồng người Chăm làng Bàu Trúc cần giữ được sự ổn định, tránh sự thay đổi nhanh, lớn về dân cư. Không chỉ là tăng dân số (không thuộc cộng đồng người Chăm) mà còn là giảm dân số hay tình trạng “dân số già”,  mà trường hợp phổ biến là những người trẻ đi làm ăn và sinh sống ở nơi khác. Cùng với đó là tình trạng thế hệ trẻ không muốn tiếp nhận nghề truyền thống nhất là như một sinh kế. Tình trạng này làm cho khả năng lưu giữ và trao truyền nghề giảm sút và có nguy cơ thất truyền.

3.2 Bảo tồn làng gốm Chăm “từ bên trong/bên dưới”

Quá trình đô thị hóa là một trong những nguyên nhân tác động vào cấu trúc và tình trạng dân cư của các làng nghề. Không chỉ vậy, đô thị hóa còn làm thay đôi môi trường và những điều kiện tự nhiên cung cấp nguyên liệu cho làng nghề làm gốm: diện tích nguồn nguyên liệu bị thu hẹp hoặc không thuộc về cộng đồng (chuyển đổi mục đích sử dụng, chuyển quyền sử dụng cho nhà đầu tư). Khi không còn nguồn nguyên liệu hoặc khai thác khó khăn, làng nghề hoặc phải nhập nguyên liệu từ nơi khác, hoặc thu hẹp sản xuất về quy mô và mức độ.

Ngược lại, khi nhu cầu sản phẩm tăng cao, nhất là với những sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu của đời sống đương đại thì quy mô sản xuất được mở rộng, kỹ thuật sản xuất có xu hướng thay đổi “hiện đại hóa”, như làm gốm bằng bàn xoay và nung gốm trong lò chẳng hạn. Yếu tố kỹ thuật mới phù hợp sản xuất hàng loạt, có phần giảm thiểu tỷ lệ phế phẩm, tăng năng xuất… Nhưng sẽ làm biến mất tính chất “thủ công, đơn chiếc” từ quá trình nặn tay và nung thô sơ ngoài trời. Đồng thời, vai trò của người thợ tạo dáng – phụ nữ - sẽ mất đi vị thế quan trọng trong quá trình sản xuất gốm. Một trong những điều hấp dẫn của nghề làm gốm Chăm, một biểu trưng văn hóa “mẫu hệ Chăm” sẽ mai một.

Có thể tăng năng xuất và quy mô sản xuất đồ gốm mà không làm thay đổi tính chất thủ công truyền thống được không? Có thể được! Bằng cách thay thế máy móc, phân công lao động, chuyên môn hóa một số công đoạn trong quy trình làm gốm như công đoạn khai thác và xử lý nguyên liệu, ủ và nhào trộn nguyên liệu. Còn các công đoạn khác thì cần được bảo tồn, nhất là nặn gốm bằng tay và nung ngoài trời.

Một phương thức khác: duy trì kỹ thuật thủ công truyền thống cho những sản phẩm mỹ nghệ độc bản hoặc theo đơn đặt hàng. Giá thành tất nhiên sẽ cao để đảm bảo chất lượng của sự khác biệt. Còn những sản phẩm khác có thể sản xuất hàng loạt để giảm giá thành và phổ biến rộng rãi kiểu “hàng chợ”. Tuy nhiên, điều quyết định để tồn tại và phát triển là là sản phẩm vẫn phải có sự khác biệt, độc đáo!

Đây chính là ADN thứ ba: thể hiện bản sắc cộng đồng Chăm, của văn hóa Chămpa. “Nghệ thuật làm gốm truyền thống của người Chăm” là sự tích hợp của tất cả các yếu tố: chủ nhân, không gian và văn hóa Cham. Quan trọng nhất, nếu không thể hiện được những yếu tố của “văn hóa Champa” từ truyền thống đến hiện đại thì nghề gốm, làng gốm Chăm sẽ mãi ở tình trạng “bảo vệ khẩn cấp”.

Để bảo toàn “tính bản địa” thì với nghề làm gốm Chăm, trước mắt là cần sự đầu tư tri thức từ các nghệ nhân, họa sĩ, nhà thiết kế… để có những mẫu mã, chủng loại sản phẩm mang đậm bản sắc “văn hóa Chăm” nhưng vẫn đáp ứng nhu cầu của thị trường, hay cao hơn, tạo ra những sản phẩm hấp dẫn thị trường. Hiện nay, việc đào tạo nghề gốm phải được coi là cấp thiết nhất. Song song với việc duy trì lễ hội thờ cúng ông tổ nghề gốm, cần bắt đầu ngay từ giáo dục lịch sử địa phương về giá trị và ý nghĩa những di sản văn hóa Champa, đào tạo kỹ năng các nghề thủ công (làm gốm, dệt thổ cẩm) tại các trường dạy nghề chuyên nghiệp. Đặc biệt là vai trò của các nghệ nhân “truyền dạy” tại cơ sản sản xuất. Cần thiết liên kết chặt chẽ với các ngành nghề liên quan như mỹ thuật công nghiệp, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử - văn hóa… Có vậy những người thợ gốm mới phát triển khả năng sáng tạo lâu dài. Đồng thời khắc phục tình trạng thế hệ thợ gốm trẻ kế tiếp đang ngày càng ít do chưa hiểu biết đến nơi đến chốn về giá trị (lịch sử, văn hóa, kinh tế) của nghề gốm (truyền thống kết hợp với hiện đại).

3.3 Bảo tồn làng gốm Chăm “từ bên ngoài/ bên trên”

Để nghề gốm truyền thống có thể tồn tại và phát triển, quan trọng nhất là quan điểm, chủ trương và định hướng của chính quyền tập trung phát triển nghề gốm, thể hiện từ Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến quy hoạch các lĩnh vực, ngành nghề. Tại địa phương ngành Công thương phối hợp với ngành Văn hóa, Du lịch liên kết chặt chẽ tạo điều kiện cho nghề gốm truyền thống phát triển: đề xuất và triển khai các chính sách hỗ trợ như tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ các doanh nghiệp ngành gốm tham gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu; xây dựng điểm du lịch cộng đồng - làng nghề, thống nhất quan điểm Nghề gốm là một tài nguyên văn hóa bản địa, là di sản văn hóa có vai trò quan trọng trong phát triển bền vững.[2]

Trong thời kỳ công nghiệp 4.0 phát triển tài nguyên bản địa nói chung và các nghề thủ công truyền thống nói riêng không thể tách rời sự đầu tư trí thức và công nghệ liên quan từ sản xuất, chế biến đến quảng bá, tiêu thụ, xuất khẩu… Nếu không có tri thức và công nghệ mới hỗ trợ thì tài nguyên dù giàu có đến đâu cũng vẫn chỉ ở dạng “tiềm năng”, thậm chí còn làm trở ngại cho thay đổi tư duy phát triển bền vững.

Theo một chuyên gia, “tính bản địa” là một trong bảy từ khóa quan trọng nhất đối với người tiêu dùng thế kỷ 21 (tiết kiệm, bền vững, công nghệ, bản địa, sức khỏe, đơn giản, tự do) [3]. Chú trọng tính bản địa (tài nguyên, tri thức, văn hóa) để phát triển bền vững, thích nghi với biến đổi khí hậu, xây dựng xã hội nhân bản. Tài nguyên bản địa luôn có tiềm năng trở thành sản phẩm mang giá trị văn hóa cao. Từ sản phẩm kinh tế có thể trở thành di sản văn hóa nếu tính bản địa được coi trọng cùng với sự đầu tư tri thức, công nghệ và nguồn lực ngay từ bước đầu khởi nghiệp.

Để duy trì và mở rộng quy mô sản xuất, để sản phẩm mang tính bản địa, bản sắc cộng đồng thì việc đầu tiên là nên chăng, sản phẩm của địa phương cần được ưu tiên sử dụng tại địa phương. Sản phẩm gốm và thổ cẩm của đồng bào Chăm Ninh Thuận nên được sử dụng phổ biến trong tỉnh, tại các công sở, nhà hàng, khách sản, công trình công cộng khác như bệnh viện, trường học… Sản phẩm còn có thể sử dụng làm quà biếu tặng, lưu niệm có giá trị. Điều này không phải là “độc quyền” sản phẩm mà là sự đánh giá cao một sản phẩm kinh tế của địa phương, thể hiện hiểu biết giá trị và bản sắc văn hóa riêng của tỉnh nhà. Tất nhiên, với mỗi không gian, đối tượng sử dụng khác nhau sản phẩm gốm, thổ cầm cần có chất lượng cao, mẫu mã thích hợp và mang tính mỹ nghệ cao, vừa truyền thống nhưng không thể thiếu tính hiện đại.

Trong chuyến công tác tại Ai Cập gần đây, tôi được nghe nhiều lần từ những hướng dẫn viên, nhà nghiên cứu, nhà quản lý người Ai Cập… một quan điểm xuyên suốt và nhất quán của Bộ Du lịch và Di sản Ai Cập: “Di sản văn hóa là sản phẩm có lợi thế cạnh tranh hấp dẫn nhất trong tất cả các sản phẩm mà Ai Cập có thể cung cấp trên toàn cầu”. Ở một mức độ nào đó, tôi cho rằng di sản văn hóa phi vật thể nghệ thuật Gốm Chăm và những di sản văn hóa của VN cũng cần được xác định và đánh giá như vậy. Đến với thế giới bằng những di sản mang bản sắc riêng độc đáo chứ không phải bằng những thứ “di sản sao chép”, có vậy mới bảo tồn được di sản của chính mình và phát triển bền vững từ tài nguyên văn hóa.



[1] Luật Di sản văn hóa Việt Nam 2001 và 2013

[2] Nguyễn Thị Hậu, 2023, Gốm Cây Mai - Gốm Sài Gòn: Truyền thống và phát triển. ). Kỷ yếu HTKH Nghề gốm cổ Ninh Bình: Truyền thống và Hiện đại. Ninh Bình 4.2023. Tr. 9

[3] Nguyễn Phi Vân, 2017. Chuyên gia thương hiệu Nguyễn Phi Vân: Bảy từ khóa đối với người tiêu dùng tương lai. https://theleader.vn/chuyen-gia-thuong-hieu-nguyen-phi-van-bay-tu-khoa-doi-voi-nguoi-tieu-dung-tuong-lai-20170808085431712.htm

 






VẪN CẦN THIẾT TRƯNG BÀY BẢO VẬT QUỐC GIA

 

Những năm gần đây thành phố Huế đã có nhiều công trình cổ được trùng tu, phục dựng, chăm sóc chu đáo… góp phần nâng cao giá trị của quần thể di sản Unesco tại đây, đồng thời thu hút ngày càng nhiều du khách trong và ngoài nước.

Điện Thái Hoà – sau đợt trùng tu lớn hoàn thành vào năm 2024, những cổ vật vốn “thuộc về” nơi này cũng đã được bảo quàn, phục dựng và đưa về trưng bày tại chỗ. Ngai vàng triều Nguyễn đặt ở Điện Thái Hòa là chiếc ngai nguyên bản, gắn liền với các vị vua triều Nguyễn, được công nhân bảo vật quốc gia vào năm 2016. Tuy nhiên ngày 24.5 vừa qua một sự việc đáng tiếc đã xảy ra làm hư hỏng một phần bảo vật quốc gia này. Sự việc đang được cơ quan chức năng xử lý, trách nhiệm của cá nhân, tập thể sẽ được làm rõ.

Tôi cũng mới tham quan Điện Thái Hoà hồi tháng 3/25, nhận thấy từ hàng rào an ninh đến nơi đặt ngai vàng đủ để người tham quan ngắm hiện vật ở cự ly vừa phải, nhưng cũng không dễ dàng tiếp cận hiện vật. Vậy mà đối tượng có thể đi lại quanh hiện vật nhiều lần, thời gian không ít… Không rõ hệ thống giám sát camera an ninh hoạt động thế nào, hiện vật có được gắn hệ thống báo động – cảm biến tích hợp hay không? Việc kiểm soát ra vào khu vực trưng bày đối với người không liên quan còn lỏng lẻo. Nhất là nhân viên bảo vệ chuyên trách dù đã phát hiện dấu hiệu xâm nhập bất thường nhưng cách xử lý tình huống khẩn cấp không cương quyết và thiếu tính chuyên nghiệp.

Những người làm công tác bảo tồn di sản văn hóa đều biết, việc bảo vệ cổ vật trưng bày tại bảo tàng, di tích là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong, vì cổ vật không chỉ có giá trị về lịch sử – nghệ thuật, mà còn thường xuyên đối mặt với các nguy cơ như trộm cắp, phá huỷ của con người, hư hỏng do môi trường, hoặc xuống cấp do bảo quản không phù hợp. Để đảm bảo an toàn tuyệt đối, luôn cần thiệt lập một hệ thống giải pháp đồng bộ, bao gồm kỹ thuật hiện đại, quy trình quản lý và đào tạo con người có kỹ năng phù hợp.

Còn nhớ khoảng hai chục năm trước, các bảo tàng hầu như không thể trưng bày cổ vật quý giá như hiện vật vàng, hiện vật độc bản hay các tác phẩm nổi tiếng… Một số di tích quốc gia bị mất cổ vật… Lý do quan trọng nhất là chưa có hệ thống bảo vệ an toàn cho hiện vật quý. Những năm sau này, từ quan điểm “di sản văn hoá hướng đến phục vụ cộng cộng, cộng đồng được quyền thụ hưởng giá trị di sản của đất nước”, nhà nước và các địa phương đã đầu tư cho các bảo tàng xây dựng mới, trong đó có hệ thống trưng bày, bảo vệ hiện vật tương đối hiện đại. Vì vậy người dân và du khách đã được tiếp cận chiêm ngưỡng nhiều cổ vật quý giá.

 Sau sự cố đáng tiếc tại Điện Thái Hoà có nên tiếp tục trưng bày Bảo vật quốc gia hay chỉ trưng bày bản phục chế để đảm bảo an toàn? Câu trả lời từ góc độ di sản, an ninh, truyền thông và giáo dục là Trưng bày Bảo vật quốc gia gốc – tại di tích của nó - vẫn cần thiết nhưng phải có cơ chế kiểm soát đặc biệt!

Trưng bày bảo vật quốc gia bởi chúng có tính xác thực: Công chúng đến di tích để chiêm ngưỡng hiện vật gốc – vật chứng của lịch sử. Bảo vật quốc gia là biểu hiện cụ thể của di sản văn hoá gắn với ký ức, quyền lực, sự kiện một giai đoạn, một nhân vật lịch sử. Qua việc tham quan di tích có bảo vật quốc gia hay những cổ vật giúp lan tỏa nhận thức và cảm xúc lịch sử – một “bản năng” đặc biệt của con người mà có lẽ AI không thể thay thế.

Vì vậy sau sự cố này vẫn cần tiếp tục trưng bày Bảo vật quốc gia, nhưng phải chấn chỉnh ngay phương án bảo vệ, nâng cấp các phương thức kiểm soát chặt chẽ… Nên kết hợp công nghệ số hóa – trải nghiệm sâu – mở rộng không gian ảo - phục vụ du khách để du khách có thể ngắm nhìn kỹ hơn, lâu hơn bảo vật quốc gia, tránh cản trở người khác khi tham quan. Đó là cách bảo vệ an toàn an ninh nhưng không "cất giấu di sản" khỏi cộng đồng và đời sống xã hội, thực hiện tinh thần bảo tồn sức sống và chia sẻ di sản văn hoá của UNESCO.

 Nguyễn Thị Hậu - Báo Tuổi trẻ ngày 27/5/2025




VÀI NÉT VỀ GỐM NAM BỘ - DẤU ẤN TRĂM NĂM

Các bạn có thể xem lại buổi trò chuyện tại đây https://thuviennguyenanninh.vn/sach/di-tich-khao-co-va-dau-an-gom-sai-gon-trong-dong-chay-lich-su/Video.html

VÀI NÉT VỀ GỐM NAM BỘ

Quá trình khai phá vùng đất mới Nam Bộ từ thế kỷ XVII cho đến ngày nay cũng là quá trình hình thành một loại gốm mới ở miền Đông Nam bộ. Vùng phân bố của loại gốm cổ này nay nằm trong địa bàn của Thành phố Hồ Chí Minh và hai tỉnh lân cận là Đồng Nai và Bình Dương. Từ khoảng đầu thế kỷ 20, khu lò gốm Cây Mai và xóm Lò Gốm Sài Gòn dần ngưng hoạt động. Do quá trình đô thị hóa khu vực Sài Gòn, Chợ Lớn, các lò gốm lần lượt chuyển ra các tỉnh lân cận, nhiều nhất là vùng Biên Hòa (Đồng Nai) và Lái Thiêu (Bình Dương). Nửa sau thế kỷ 20, gốm gia dụng và gốm mỹ nghệ Biên Hòa, Lái Thiêu đã dần thay thế vai trò của gốm Sài Gòn.

So sánh với vùng gốm Bắc bộ (gốm Chu Đậu, Bát Tràng…) và Trung bộ (Gò Sành, Châu Ổ, Quảng Đức…) thì vùng Gốm Nam bộ có sự khác biệt về loại hình sản phẩm, kỹ thuật và quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ. Quá trình phát triển của nghề làm gốm truyền thống ở khu vực miền Đông Nam bộ cho ra đời các loại gốm được biết dưới các tên gọi là gốm Sài Gòn/gốm Cây Mai, gốm Biên Hòa và gốm Lái Thiêu. Đây cũng là ba dòng gốm cổ có mối liên hệ mật thiết từ những đặc trưng chung về kỹ thuật sản xuất mang tính chất “văn hóa vùng”. Đồng thời phát triển và tạo nên những đặc trưng riêng từ sản phẩm, kiểu dáng, màu men, hoa văn…

Gốm Sài Gòn: Gốm Cây Mai (khu lò Cây Mai ở khu vực gò Cây Mai quận 11), Xóm Lò Gốm (làng Hòa Lục, Phú Định quận 6, quận 8); Sài Gòn là địa danh xưa chỉ khu vực Chợ Lớn ngày nay – nơi có Xóm Lò Gốm ghi trên bản đồ và trong sử sách.

Gốm Biên Hòa: làng gốm Tân Vạn (khu lò lu, lò sành)…; gốm từ trường Mỹ nghệ Biên Hòa, muộn hơn là những cơ sở sản xuất gốm hiện nay.

Gốm Lái Thiêu: làng gốm Lái Thiêu, Tân Phước Khánh và Chánh Nghĩa... sau này là gốm Minh Long và những lò gốm thủ công hiện còn sản xuất.

Những tên gọi này tương đương như tên gọi của Gốm Bát Tràng, Gốm Chu Đậu, gốm Đông Triều... ở miền Bắc, gốm Gò Sành, Châu Ổ ở miền Trung... Vừa chỉ địa danh dân gian cụ thể, vừa cho biết không gian của một “vùng gốm cổ”. Mỗi vùng gốm có đặc trưng riêng và thịnh đạt vào những thời điểm khác nhau, song như những chi lưu tất cả cùng hòa vào và tạo nên dòng chảy “Gốm Nam Bộ”, có thể đối sánh với những vùng sản xuất gốm nổi tiếng khác trong nước. Mặt khác, khái niệm hành chính “Nam bộ” xuất hiện muộn hơn nghề làm gốm ở đây, vì vậy cần phân định rõ “gốm Nam bộ là 3 dòng gốm cổ: gốm Sài Gòn, Biên Hòa, Lái Thiêu”, để phân biệt với gốm sản xuất tại các tỉnh Nam bộ từ nửa sau thế kỷ 20.

Sản phẩm gốm Nam bộ mang tính ứng dụng cao, đáp ứng mọi nhu cầu của xã hội, nhu cầu hàng ngày của giới bình dân và cả tầng lớp cao hơn. Đó là nhóm đồ gốm dùng chứa đựng (lu, hũ, khạp, chậu…), nấu nướng (nồi, ơ, siêu, ấm…), ăn uống (đĩa, bát, tô, bình trà bình rượu, ly, cốc, ống nhổ, ống đũa…), nhóm đồ dùng trong sinh hoạt tinh thần (tượng thờ, chân đèn, đèn gốm, lư hương, mâm bồng, ống bút…), nhóm gốm trang trí nội ngoại thất (đôn, chậu, gạch bông gió, lan can, tượng thú…), nhóm xây dựng, trang trí kiến trúc (gạch, ống nước, quần thể tượng gốm, phù điêu…). Loại hình, kiểu dáng của sản phẩm gốm kiểu dáng phong phú, đa dạng và có xu hướng “hiện đại”.

Những bộ sưu tập gốm Sài Gòn hay gốm Lái Thiêu, Biên Hòa đều cho thấy hầu hết sản phẩm rất đẹp nhưng đều có dấu vết đã qua sử dụng. Tức là, sản phẩm từ lúc làm ra cho đến khi người ta chứng minh được giá trị của nó xứng đáng để sưu tập đồ cổ thì luôn được “tham gia vào cuộc sống” chứ không tách ra riêng biệt “để thưởng ngoạn” như một số dòng gốm khác. Điều này thể hiện tính cách, cá tính của người Nam Bộ là làm bất cứ một vật gì cũng hướng đến tính ứng dụng thực tế, chứ không trưng bày, trang trí thuần túy.

Sản phẩm, trang trí và kỹ thuật sản xuất từ gốm Sài Gòn đến gốm Biên Hòa, Lái Thiêu thể hiện cụ thể “Đất nào, nước nào phong thổ nào thì con người đó, mà con người nào thì sản phẩm đó. Người Nam Bộ làm ra gốm Nam Bộ, cởi mở đón nhận nhưng vẫn giữ được nét đặc sắc vốn có của mình”. Tính chất cởi mở, tiếp nhận kỹ thuật mới và sáng tạo sản phẩm mới đã góp phần vào sự phát triển kinh tế thị trường từ rất sớm của vùng đất Nam bộ. Nhiều đồ gốm có hiệu đề còn cho biết tên lò, người đặt hàng hay các tiệm bán đồ gốm, có minh văn phản ánh ước mong một cuộc sống sung túc, bình an.

Gốm Nam bộ phản ánh một giai đoạn lịch sử ở Nam bộ: từ những sản phẩm dành cho người bình dân phổ biến ở giai đoạn khai phá (thế kỷ 18) đến các loại sản phẩm cao cấp hơn kiểu Trung quốc, kiểu Pháp (thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20) phục vụ giới thượng lưu hoặc dịp đặc biệt của giới bình dân khi xã hội phát triển… Dù bình dân hay cao cấp thì kỹ thuật tạo dáng và tạo hoa văn, màu men… trên mỗi sản phẩm đều phản ánh nhu cầu thưởng lãm của mỗi tầng lớp.

Các sưu tập cổ vật chỉ thực sự có giá trị khi nó đến được với nhiều người. Cuộc trưng bày "Du xuân - Cổ ngoạn" Xuân Giáp Thìn 2024 của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những cuộc trưng bày về Gốm Nam bộ được công chúng nhiệt tình đón nhận. Những hiện vật được trưng bày có giá trị cao về lịch sử - văn hóa, giúp quảng bá, giới thiệu gốm cổ Nam Bộ tới với đông đảo công chúng. Nhờ vậy những giá trị quý báu của di sản văn hóa Nam bộ được phổ biến rộng rãi hơn trong xã hội

TS. Nguyễn Thị Hậu. Trong sách DU XUÂN - CỔ NGOẠN - của Bảo tàng TPHCM.


TRIỂN LÃM GỐM NAM BỘ CÓ TÍCH HỢP ỨNG DỤNG QR ĐẦU TIÊN TẠI THƯ VIỆN SỐ NGUYỄN AN NINH - CHUYÊN ĐỀ NAM BỘ🎉
🗓️Từ ngày 24/5 đến 31/5/2025, trên website chính thức của Thư viện số Nguyễn An Ninh, triển lãm hình ảnh và tài liệu với chủ đề “Đất Lành Hoá Ngọc” sẽ chính thức diễn ra.
🧭Triển lãm là lời mời dành cho bạn đọc và khách tham quan bước vào hành trình khám phá những dòng gốm đặc trưng của Nam Bộ: từ Gốm Sài Gòn, Gốm Cây Mai - Đề Ngạn, Gốm Biên Hoà, Gốm Lái Thiêu cho đến Gốm Vĩnh Long, Gốm An Giang.
🖼️Toàn bộ nội dung triển lãm được thể hiện qua hệ thống poster trực quan, kết hợp với các mã QR tích hợp, cho phép người xem dễ dàng tiếp cận thêm nguồn tư liệu số mở rộng: bài viết nghiên cứu, hình ảnh minh hoạ, tư liệu nghe – nhìn và bộ sưu tập chuyên sâu. Tất cả đều được lưu trữ và truy cập trực tiếp trên nền tảng số của thư viện.
💻Với hình thức triển lãm trực tuyến, “Đất Lành Hoá Ngọc” mang đến một trải nghiệm đa tầng kết hợp yếu tố truyền thống và hiện đại, giúp người xem không chỉ dừng lại ở việc “thưởng lãm”, mà còn có thể tiếp cận chiều sâu của gốm Nam Bộ ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào.
👉Bạn đọc hãy đón chờ và cùng khám phá triển lãm trên website chính thức của Thư viện số Nguyễn An Ninh từ ngày 24/5 tới nhen!
------------------
TVNAN | GỐM NAM BỘ - DẤU ẤN TRĂM NĂM
📅 Thời gian: 24/5 - 31/5/2025
📍 Địa điểm: Đường Sách TP. Hồ Chí Minh
🎟️ Sự kiện hoàn toàn MIỄN PHÍ, mở cửa cho tất cả mọi người.
🇻🇳 Khuyến khích tham gia trải nghiệm gốm và các hoạt động văn hóa độc đáo.




Nhà nước cần giữ quyền kiểm soát trong đầu tư đường sắt cao tốc

 https://www.sggp.org.vn/nha-nuoc-can-giu-quyen-kiem-soat-trong-dau-tu-duong-sat-cao-toc-post796277.html?fbclid=IwY2xjawKc7dlleHRuA2FlbQIxMABicmlkETFCdHRuRDdKZWlXMGRQVnBaAR4nfiijgWXE95NIMLZWWaM6m3NjpSgJuQc5qaTzkJ971zQsAiPfHs_yddkktw_aem__TJvSdq9-veXr7X993gJYw

TS HUỲNH THANH ĐIỀN
Công ty VinSpeed thuộc hệ sinh thái Vingroup mới đây đã đề xuất một loạt cơ chế đặc thù cho dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, trong đó đáng chú ý là việc chuyển từ hình thức đầu tư công hoặc đối tác công tư (PPP) sang tư nhân đầu tư trực tiếp. VinSpeed cam kết góp 20% vốn, đề xuất Nhà nước cho vay 80% còn lại không lãi suất trong 35 năm, xin quyền khai thác quỹ đất quanh ga và thời hạn đầu tư lên đến 99 năm, với mục tiêu hoàn thành dự án trong 5 năm.
Đề xuất này cần được đánh giá một cách toàn diện, không chỉ dựa trên hiệu quả tài chính mà cần phải cân nhắc kỹ lưỡng đến tác động xã hội, an ninh quốc phòng và tính hợp hiến cũng như định hướng phát triển hạ tầng quốc gia lâu dài.
Việc Nhà nước cho vay 80% vốn đầu tư không lãi suất trong 35 năm, thực chất là sử dụng nguồn tài chính công để hỗ trợ cho tư nhân. Đây là nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, được huy động từ thuế của dân nên việc sử dụng phải tuân thủ chặt chẽ Luật Ngân sách và các quy định liên quan để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả. Do đó, cơ chế này cần được đánh giá kỹ về tính hợp pháp và khả thi, đồng thời thiết lập cơ chế giám sát, ràng buộc rõ trách nhiệm doanh nghiệp nhằm bảo vệ nguồn vốn công và lợi ích xã hội.
Về giao quyền khai thác quỹ đất quanh các nhà ga để phát triển đô thị với diện tích đặc biệt lớn từ tuyến đường cao tốc đi qua hầu hết các đô thị lớn của cả nước sẽ có nguy cơ tư nhân độc quyền đất đai. Việc này làm gia tăng rủi ro về quản lý tài nguyên đất, thậm chí gây ra các vấn đề về minh bạch và rủi ro biến dự án giao thông công cộng thành cơ hội thu lợi riêng.
Hơn nữa, vấn đề an ninh quốc phòng đối với dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam là vô cùng quan trọng và cần được đặt lên hàng đầu. Nhiều tuyến đường và các đoạn cung đường chiến lược phải được thiết kế, xây dựng kèm theo hệ thống phòng thủ bí mật và bảo mật cao nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho quốc gia. Những hệ thống này cần vận hành theo cơ chế đặc biệt, chỉ thuộc quyền kiểm soát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, do đó nhà đầu tư tư nhân không được phép tiếp cận hoặc can thiệp nhằm bảo vệ an ninh quốc phòng.
Cần nhất quán lựa chọn mô hình hợp tác công tư (PPP) trong phát triển đường sắt cao tốc theo hướng Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong hoạch định chiến lược, kiểm soát vận hành và quản lý rủi ro, đặc biệt trong các tình huống khẩn cấp liên quan đến an ninh quốc phòng. Doanh nghiệp tư nhân chỉ tham gia đấu thầu công khai các gói xây lắp hạ tầng kỹ thuật, hệ thống tín hiệu, đoàn tàu để tận dụng nguồn lực xã hội hóa và công nghệ hiện đại. Đồng thời, cho phép họ khai thác thương mại khu vực nhà ga thông qua các dự án bất động sản, tổ hợp dịch vụ hoặc khu đô thị vệ tinh nhằm tạo thêm nguồn thu hỗ trợ cho dự án và tăng khả năng hoàn vốn.
Trong mô hình hợp tác công tư cho đường sắt cao tốc, chính sách giá và phí cần cân bằng giữa khả năng thu hồi vốn cho nhà đầu tư và mục tiêu phục vụ lợi ích công. Giá vé vận tải hành khách nên do nhà nước kiểm soát để đảm bảo khả năng tiếp cận cho người dân, trong khi các dịch vụ thương mại như logistics, bán lẻ trong ga, khai thác bất động sản có thể áp dụng giá thị trường. Do chi phí đầu tư và vận hành lớn, nếu để tư nhân tự tính đủ chi phí giá vé sẽ rất cao, gây hạn chế sử dụng và làm giảm hiệu ứng lan tỏa kinh tế.
Vì vậy, cần cơ chế trợ giá từ nhà nước (qua đặt hàng dịch vụ công hoặc nguồn thu từ phát triển đô thị quanh ga) để giữ giá hợp lý. Ngoài ra, việc chia sẻ lợi nhuận từ hoạt động thương mại để hoàn trả phần hỗ trợ từ ngân sách cần được quy định rõ, minh bạch. Khung phí hạ tầng và cơ chế giám sát, kiểm toán độc lập phải được thiết lập nhằm đảm bảo công bằng, hiệu quả và phục vụ lợi ích lâu dài của quốc gia.
Việt Nam khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, xác định đây là động lực quan trọng phát triển kinh tế nhưng cần được cộng hưởng với kinh tế nhà nước. Nhà nước giữ vai trò đầu tư trong các lĩnh vực huyết mạch, điều tiết và tạo điều kiện cho tư nhân đồng hành phát triển. Mô hình PPP trong đầu tư đường sắt cao tốc Bắc - Nam là phù hợp với thông lệ quốc tế và đảm bảo hài hòa giữa hiệu quả kinh tế, công bằng xã hội và lợi ích chiến lược dài hạn của quốc gia.

PS 1. Cho đến này đây là bài duy nhất trên báo chính thống về việc này!
PS 2. Từ FB Jang Kều Hoan nghênh Ngân hàng Nhà nước đã chỉ rõ vấn đề từ góc độ vốn & quản trị vốn vay của dự án đường sắt cao tốc VinSpeed:
- hệ số nợ/vốn chủ sở hữu của VinGroup: 4.23 lần 😝
- dư nợ 31/5/2025 ở VN: 117.058 tỷ đồng (Một trăm mười bảy triệu tỷ đồng!!!) 😜
- dư nợ vay nước ngoài: 2,41 tỷ USD
--> chủ yếu phụ thuộc vốn vay ở mức rất nguy hiểm
--> Bộ XD mà muốn thì BXD bổ sung về cơ chế bảo lãnh của CP báo cáo Quốc Hội
--> Nếu không, VinSpeed đi vay nước ngoài cũng phải đưa ra phương án, kế hoạch vay cụ thể
Đây mới nói về vốn thôi, còn tổng thể bài toán quy hoạch phát triển kinh tế đất nước, rồi các vấn đề về kỹ thuật, về môi trường cạnh tranh... chắc chắn sẽ có các chuyên gia và các bộ, ban, ngành nói đến! Mà công nhận mới nghe cái đề xuất "li kì" đó mà CP vội vàng triệu tập khẩn cấp cuộc họp thì thấy hơi hài. Đúng là chúng ta đang được xem một tấn hài kịch không hơn không kém 😉
Có thể là hình ảnh về văn bản

 209 người khác




(tiếp theo) VIN, TƯ SẢN DÂN TỘC VÀ ĐIỂM NGHẼN THỂ CHẾ

 (tiếp theo) VIN, TƯ SẢN DÂN TỘC VÀ ĐIỂM NGHẼN THỂ CHẾ

V. KHÔNG QUỐC GIA NÀO LÀM NHƯ THẾ!
TÔI:
Trong một dự án tương tự, bạn có thấy trên thế giới có nước nào mà một doanh nghiệp có đề xuất kiểu Vin và được nhà nước chấp thuận không? Trong trường hợp như dự án đường sắt cao tốc của VN, các nước tiên tiến sẽ thực hiện theo phương án nào?
AI:
Câu hỏi của bạn rất hay và cũng rất thiết thực:
Trên thế giới có ai từng để một doanh nghiệp tư nhân làm toàn bộ đường sắt cao tốc như đề xuất của Vin không? Và các nước tiên tiến làm theo cách nào?
Câu trả lời ngắn gọn là:
Không có quốc gia phát triển nào giao toàn bộ việc xây dựng, sở hữu, vận hành, và khai thác hạ tầng đường sắt cao tốc cho một doanh nghiệp tư nhân theo hình thức như đề xuất của Vin.
Hầu hết các nước tiên tiến đều áp dụng mô hình Nhà nước làm chủ hạ tầng, và có thể xã hội hóa một phần khai thác thương mại (vận hành tàu, dịch vụ ga...).
1. Có nước nào từng làm theo kiểu “Vin đề xuất”?
Hiếm – gần như không có.
Lý do: Đường sắt cao tốc là tài sản hạ tầng chiến lược, có giá trị lớn và liên quan đến an ninh, phát triển vùng, và công bằng xã hội. Các nước đều không để doanh nghiệp tư nhân “sở hữu toàn bộ”, đặc biệt không trao quyền độc quyền kéo dài và giao đất quy mô lớn đi kèm.
Một vài ví dụ “gần giống nhất” (nhưng vẫn rất khác):
• Đài Loan (THSR – Taiwan High Speed Rail):
Được đầu tư theo mô hình BOT (Build – Operate – Transfer) bởi một tập đoàn tư nhân.
→ Nhưng sau nhiều năm thua lỗ, nợ chồng chất, Nhà nước phải tái cơ cấu, chiếm tỷ lệ sở hữu chi phối và kiểm soát hạ tầng.
• Hồng Kông (MTR Corporation):
Là công ty niêm yết nhưng phần lớn do chính phủ sở hữu. Họ làm đường sắt, tài trợ bằng mô hình “Rail + Property” (mở rộng bất động sản dọc tuyến).
→ Nhưng Nhà nước kiểm soát hạ tầng và quy hoạch đất, chứ không “giao hết” như đề xuất của Vin.
2. Vậy các nước tiên tiến làm thế nào với đường sắt cao tốc?
A. Mô hình phổ biến nhất: “Nhà nước đầu tư hạ tầng – tư nhân có thể khai thác vận hành”
Quốc gia Ai đầu tư hạ tầng? Ai vận hành? Giao đất kèm theo?
Nhật Bản (Shinkansen) Chính phủ & công ty quốc doanh (JR Group) JR Companies (tư nhân hóa có kiểm soát) Không giao đất, Nhà nước quy hoạch đô thị
Pháp (TGV) Nhà nước qua SNCF Réseau SNCF Voyageurs (quốc doanh) – Đang thử xã hội hóa vận hành Không giao đất
Hàn Quốc (KTX) Nhà nước (Korea Rail Network Authority) Korail, SRT (tư nhân hóa 1 phần) Không giao đất
Trung Quốc Nhà nước đầu tư gần như toàn bộ CRH (doanh nghiệp quốc doanh) Nhà nước nắm quỹ đất, dùng để hỗ trợ tài chính gián tiếp
Đức (ICE) Deutsche Bahn (do Nhà nước sở hữu 100%) Deutsche Bahn Không giao đất
Điểm chung:
• Nhà nước sở hữu hạ tầng cố định (ray, ga, hệ thống điện).
• Tư nhân có thể khai thác đoàn tàu, dịch vụ, nhưng phải trả phí sử dụng hạ tầng.
• Đất đai và quy hoạch được Nhà nước kiểm soát chặt. Không “giao đất đi kèm”.
3. Gợi ý cho Việt Nam từ bài học quốc tế
Nên tránh:
• Giao quyền sở hữu trọn gói (Design – Build – Own – Operate – Transfer) cho một doanh nghiệp đơn lẻ, không kiểm soát được về rủi ro và độc quyền.
• Giao đất công không đấu giá, không quy hoạch tổng thể.
Nên làm:
• Nhà nước đầu tư phần xương sống hạ tầng (đường ray, hệ thống điều hành), có thể huy động vốn bằng trái phiếu, ODA, PPP.
• Tư nhân vận hành đoàn tàu, dịch vụ thương mại, thông qua đấu thầu cạnh tranh.
• Phát triển quỹ đất dọc tuyến, do Nhà nước quy hoạch và đấu thầu khai thác, không giao trọn gói cho 1 nhà đầu tư.
Kết luận
Đề xuất của Vin có yếu tố đổi mới, nhưng chưa phù hợp với thông lệ quốc tế về quản trị hạ tầng chiến lược. Không có nước tiên tiến nào để doanh nghiệp tư nhân sở hữu toàn bộ tuyến đường sắt cao tốc kèm đất đai thương mại trong 99 năm mà không có giám sát công – chia sẻ lợi ích công.
Mô hình PPP hiện đại của các nước đều hướng tới:
“Cân bằng giữa hiệu quả tư nhân và kiểm soát công”,
chứ không phải “khoán trắng cho doanh nghiệp”.
VI. VÌ MỘT GIAI CẤP TƯ SẢN DÂN TỘC?
TÔI:
Ý kiến khác cho rằng, chấp thuận đề nghị của Vin là phù hợp với tinh thần của "kỷ nguyên mới" là coi "kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của sự phát triển", và để xây dự giai cấp tư sản dân tộc. Bạn nghĩ sao về nhìn nhận này?
AI:
Đây là một lập luận rất đáng suy nghĩ và cũng đang được nhiều người sử dụng để bảo vệ đề xuất của Vin: rằng việc chấp thuận một đề án “đầy tham vọng” như vậy là thể hiện đúng tinh thần coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng, và là cách để xây dựng giai cấp tư sản dân tộc trong thời đại mới.
Tuy nhiên, cần phân biệt rõ giữa “ủng hộ tư nhân mạnh lên” và “khoán trắng quyền lực công”, để thấy rằng:
Ủng hộ kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ không đồng nghĩa với việc trao cho một doanh nghiệp toàn quyền định đoạt hạ tầng chiến lược quốc gia.
1. "Giai cấp tư sản dân tộc" cần được xây bằng năng lực, chứ không phải đặc quyền
Nếu nhìn lại lịch sử thế giới và ngay cả Việt Nam, một “tư sản dân tộc” chân chính phải được xây dựng dựa trên:
• Năng lực cạnh tranh thị trường
• Sáng tạo công nghệ
• Tự chủ tài chính
• Tuân thủ luật chơi chung và đóng góp lợi ích công
Nếu một doanh nghiệp được độc quyền một tuyến đường sắt cao tốc, sở hữu đất đai đô thị đi kèm, được vay vốn nhà nước với ưu đãi, được ưu tiên điều phối vận hành, thì:
Họ đang phát triển không phải bằng năng lực thị trường, mà bằng quyền lực công được trao.
Điều đó sẽ không khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, không tạo ra một giai cấp tư sản có nội lực thật sự, mà có nguy cơ hình thành nhóm lợi ích.
2. Kinh tế tư nhân là động lực – nhưng hạ tầng chiến lược vẫn cần Nhà nước dẫn dắt
Tuyên bố “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng” (không phải duy nhất) là định hướng đúng. Nhưng các quốc gia phát triển đều giữ lại vai trò lãnh đạo và điều phối của Nhà nước trong hạ tầng chiến lược, để:
• Đảm bảo công bằng giữa các vùng miền
• Kiểm soát rủi ro độc quyền tự nhiên
• Bảo vệ lợi ích dài hạn của công chúng
Thực tế, các doanh nghiệp tư nhân mạnh nhất ở các nước như Nhật, Mỹ, Đức... cũng không “sở hữu” đường sắt cao tốc. Họ khai thác dịch vụ trên hạ tầng công, nhờ sự điều phối của chính phủ để tạo một “sân chơi công bằng”.
3. Nếu muốn xây một "Vin lớn" – hãy tạo cơ chế công bằng, chứ không đặc quyền
Vin có thể và nên đóng vai trò lớn trong các dự án quốc gia, nhưng thông qua cơ chế cạnh tranh, đấu thầu, và chia sẻ lợi ích rõ ràng:
• Có thể giao khai thác vận hành tàu thông qua đấu thầu quốc tế minh bạch
• Có thể cho hợp tác phát triển đô thị dọc tuyến – nhưng dưới quy hoạch thống nhất, không “giao trọn gói”
• Có thể hỗ trợ tín dụng – nhưng không ưu đãi đặc biệt, tránh tạo tiền lệ nguy hiểm
Xây dựng một "tư sản dân tộc" cần thể chế, chứ không cần đặc quyền.
Kết luận
Việc coi đề xuất của Vin là cơ hội để phát triển kinh tế tư nhân là một góc nhìn hợp lý, nhưng chưa đủ toàn diện.
Chúng ta cần:
Ủng hộ tư nhân lớn mạnh, nhưng trên một sân chơi được luật pháp và nhà nước kiểm soát vì lợi ích công.
Nếu không, cái gọi là “tư sản dân tộc” có thể trở thành “tư sản thân hữu”, làm méo mó cả thị trường lẫn lòng dân.
VII. THÁO ĐIỂM NGHẼN THỂ CHẾ
TÔI:
"Xây dựng một "tư sản dân tộc" cần thể chế, chứ không cần đặc quyền". Bạn có thể nói cụ thể về cái thể chế ấy không?
AI:
Câu nói "Xây dựng một tư sản dân tộc cần thể chế, chứ không cần đặc quyền" là một tuyên ngôn ngắn gọn nhưng giàu nội dung. Để hiện thực hóa điều đó, cần cụ thể hoá khái niệm “thể chế” ở đây – tức là hệ thống luật lệ, quy chuẩn, cơ chế quản lý và thực thi nhằm:
Tạo sân chơi công bằng, khuyến khích cạnh tranh, kiểm soát quyền lực và bảo vệ lợi ích công.
Cụ thể, để xây dựng được một giai cấp tư sản dân tộc thực sự, Việt Nam cần những nền tảng thể chế sau:
1. Thể chế pháp lý: Minh bạch, ổn định, bảo vệ quyền tài sản và hợp đồng
• Luật pháp phải rõ ràng, nhất quán, không “làm luật theo từng dự án”.
• Cơ chế thực thi phải công bằng, không phân biệt giữa doanh nghiệp nhà nước, tư nhân hay FDI.
• Bảo vệ mạnh mẽ quyền tài sản, sáng chế, và các hợp đồng kinh tế – đặc biệt với các dự án lớn có tính dài hạn.
2. Thể chế cạnh tranh: Không độc quyền, không ưu đãi ngầm
• Các doanh nghiệp phải được lớn lên bằng cạnh tranh, chứ không bằng “xin - cho” hay “cửa sau”.
• Các dự án lớn như đường sắt cao tốc cần:
o Đấu thầu công khai quốc tế
o Chống “may đo” hồ sơ mời thầu
o Tách bạch rõ giữa phần công (hạ tầng) và phần tư (khai thác)
3. Thể chế kiểm soát quyền lực công: Giảm rủi ro nhóm lợi ích
• Các cơ quan nhà nước phải giữ khoảng cách với doanh nghiệp – không bị chi phối, không bị “mua chuộc chính sách”.
• Quốc hội, báo chí, xã hội dân sự cần có vai trò giám sát độc lập, nhất là với các hợp đồng BT, PPP, dự án vay vốn công.
4. Thể chế phát triển thị trường vốn: Không phụ thuộc quá mức vào tín dụng ngân hàng nhà nước
• Một giai cấp tư sản bền vững không thể dựa mãi vào vốn ưu đãi, vay nhà nước, đất rẻ.
• Cần phát triển thị trường tài chính minh bạch để doanh nghiệp huy động vốn từ thị trường: cổ phiếu, trái phiếu, quỹ đầu tư...
5. Thể chế điều tiết phát triển vùng – không để “tư nhân mạnh” dẫn dắt định hướng phát triển đô thị, hạ tầng
• Quy hoạch quốc gia và vùng phải do nhà nước hoạch định.
• Doanh nghiệp được tham gia thực hiện, chứ không được toàn quyền vẽ quy hoạch theo lợi ích riêng.
Kết luận:
Một “tư sản dân tộc” thực sự phải là lớp doanh nhân lớn mạnh về trí tuệ, vốn, công nghệ – trong một thể chế công bằng và minh bạch.
Nếu không có thể chế ấy, mà chỉ có đặc quyền, thì đó không phải là “tư sản dân tộc”, mà là nhóm lợi ích đặc quyền nấp bóng tư nhân, dễ dẫn đến độc quyền, tham nhũng, và khủng hoảng niềm tin xã hội.
VIII. PHƯƠNG ÁN NÀO?
TÔI:
Theo bạn, trong bối cảnh mọi mặt của VN và thế giới, có nên xây tuyến đường sắt này không? Có phương án nào tốt hơn việc quyết định xây dựng tuyến đường sắt cao tốc bắc nam này không?
AI:
Đây là một câu hỏi rất quan trọng và phức tạp, bởi vì xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc – Nam là một dự án quy mô lớn, tốn kém và có tác động dài hạn đến phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam. Dưới đây là phân tích của tôi về việc có nên xây hay không, cũng như một số phương án thay thế hoặc bổ sung:
1. Có nên xây tuyến đường sắt cao tốc Bắc – Nam?
Ưu điểm:
• Giải quyết bài toán giao thông lâu dài: Việt Nam đang đối mặt với áp lực giao thông ngày càng lớn, đặc biệt trên trục Bắc – Nam. Đường sắt cao tốc có thể giúp giảm tải cho các phương tiện giao thông đường bộ, giảm ùn tắc và tai nạn.
• Phát triển kinh tế vùng: Tuyến cao tốc có thể thúc đẩy liên kết vùng, phát triển kinh tế các địa phương ven tuyến, tạo động lực mới cho công nghiệp, dịch vụ.
• Công nghệ và hình ảnh quốc gia: Việc xây dựng đường sắt cao tốc thể hiện năng lực công nghệ và khát vọng phát triển của Việt Nam, nâng cao vị thế quốc tế.
Nhược điểm và rủi ro:
• Chi phí rất lớn: Đây là dự án cần nguồn vốn khổng lồ, có thể lên đến hàng chục tỷ USD, gây áp lực nợ công và ngân sách.
• Khả năng hoàn vốn thấp: Do giá vé phải hợp lý, tốc độ phát triển thị trường vận tải đường sắt cao tốc có thể không đáp ứng được kỳ vọng lợi nhuận, gây rủi ro tài chính.
• Thách thức công nghệ, quản lý: Đường sắt cao tốc đòi hỏi công nghệ và quản lý tiên tiến, nếu chưa đủ năng lực sẽ dễ dẫn đến đội vốn, chậm tiến độ, chất lượng không đảm bảo.
• Tác động môi trường: Dự án quy mô lớn sẽ ảnh hưởng đến môi trường, di dời dân cư, cần đánh giá kỹ để hạn chế hậu quả.
2. Phương án thay thế hoặc bổ sung có thể cân nhắc
Phương án 1: Nâng cấp, mở rộng mạng lưới đường sắt hiện có
• Đầu tư cải tạo đường sắt Bắc – Nam hiện tại để nâng cao tốc độ và công suất.
• Đây là phương án chi phí thấp hơn, ít rủi ro hơn và có thể cải thiện giao thông đường sắt trong ngắn hạn.
• Tuy nhiên, tốc độ tối đa và chất lượng dịch vụ vẫn bị giới hạn.
Phương án 2: Phát triển hệ thống đường bộ và đường hàng không
• Tăng cường đầu tư vào cao tốc, đường quốc lộ để giảm tải vận tải đường bộ.
• Mở rộng và hiện đại hóa sân bay, phát triển hàng không nội địa để giảm áp lực trên tuyến Bắc – Nam.
• Phương án này có thể nhanh hơn nhưng gây ô nhiễm và tai nạn cao hơn so với đường sắt.
Phương án 3: Xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao (cao tốc nhưng không phải siêu cao tốc)
• Xây dựng tuyến đường sắt mới với tốc độ vừa phải (120-160 km/h), chi phí thấp hơn, dễ triển khai và vận hành hơn.
• Vừa đáp ứng nhu cầu vận tải, vừa tránh rủi ro quá lớn về công nghệ và tài chính.
Phương án 4: Kết hợp đa phương thức vận tải thông minh
• Tạo ra hệ sinh thái vận tải tích hợp giữa đường bộ, đường sắt, hàng không và đường thủy.
• Tận dụng ưu điểm từng loại hình vận tải, tối ưu hóa chi phí và hiệu quả.
3. Kết luận
• Việc xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc – Nam là một quyết định chiến lược, nên cân nhắc kỹ càng dựa trên phân tích chi phí – lợi ích tổng thể, khả năng tài chính, công nghệ và nguồn nhân lực.
• Trong bối cảnh hiện nay, có thể ưu tiên các phương án nâng cấp hệ thống đường sắt hiện có, kết hợp phát triển đồng bộ các loại hình vận tải khác, trước khi đầu tư một dự án cao tốc quy mô và tốn kém như vậy.
• Việc lựa chọn phương án nào cần dựa trên mục tiêu phát triển lâu dài, minh bạch, có sự tham vấn rộng rãi từ các chuyên gia, nhà khoa học và cộng đồng xã hội.
TÔI: Cảm ơn bạn.
AI: Rất vui được giúp bạn! Nếu cần thêm gì hoặc muốn thảo luận sâu hơn, cứ nói nhé. Chúc bạn một ngày tuyệt vời!




ác

TRÔI ĐI NHỮNG BỒNG BỀNH của hoạ sĩ Vũ Hoàng Tuấn

  Mình rất thích tranh của Vũ Hoàng Tuấn, có lẽ vì mình "cảm" cái chất dân gian hóm hỉnh, hay chất sang cả mà sâu lắng "kiểu ...