Nguyễn Thị Hậu
1.
Thời gian thật nhanh. Chớp mắt
tôi đã sống ở thành phố này 50 năm, kể từ mùa hè 1975. Năm mươi năm sống ở Sài Gòn tôi nhớ gì về Sài Gòn “hôm
qua” trong sự thay đổi nhanh chóng của TP. Hồ Chí Minh ngày
hôm nay?
Từ những năm đầu tiên sống ở Sài Gòn đến nay có một nơi tôi
hay đến, đó là khu vực bưu điện thành phố. Tòa nhà được xây dựng từ cuối thế kỷ
19 khi dân phố đô thị này chưa đến nửa triệu người, vậy mà cho đến nay khi
thành phố có hơn 10 triệu dân, nó vẫn đáp ứng được nhu cầu của người thành phố
và du khách. Lúc ấy ở quang trường Công xã Paris trước Bưu điện và Nhà Thờ Đức
Bà có nhiều kiot bán văn phòng phẩm: báo chí, giấy viết thơ và bao thơ, tranh
ảnh bưu thiếp, nhất là những ngày cuối năm thiệp Giáng sinh, thiệp Năm mới rực
rỡ cả khu vực. Tiếc là nay không còn những kiot văn hóa phẩm ở đây và trên
đường Nguyễn Huệ - một cảnh quan văn hóa quen thuộc ở nhiều đô thị trên thế
giới.
Khu vực trung tâm của Sài Gòn là Nhà thờ Đức Bà và kế bên là bưu điện
trung tâm, phía trước quảng trưởng nhỏ là con đường Đồng Khởi. Từ “tâm” này mở
rộng bán kính trên dưới một cây số có Tòa thị chính, chợ Bến Thành, bến Bạch
Đằng và cột cờ Thủ Ngữ, bến đò Thủ Thiêm, dinh Thống Nhất và vườn Tao Đàn, Thảo
cầm viên, cả khu nghĩa địa “tây” Mạc Đĩnh Chi nay đã thành một công viên lớn,
có thể kể đến các nhà thờ và chợ khu vực Tân Định, khu vực Chợ Quán… Các công
trình này được xây dựng vào giai đoạn đô thị Sài Gòn mới hình thành, đầy đủ
những “thiết chế” chính trị, kinh tế, văn hóa quan trọng của một đô thị hiện
đại hồi đầu
thế kỷ 20.
Trong nhiều nghiên cứu về di sản
văn hóa gọi đây là “vùng lõi di sản” của thành phố, cảnh quan làm nên bản sắc
của đô thị Sài Gòn. Tuy nhiên, trong hơn 20 năm qua khu vực này đã có sự thay
đổi lớn, quan trọng nhất là sự “biến mất” nhiều công trình kiến trúc là di sản
văn hóa đô thị, đồng thời cũng làm biến đổi cảnh quan chung của khu vực trung
tâm thành phố. Điều này một mặt làm diện mạo đô thị “hiện đại” hơn, nhưng mặt
khác làm cho dấu tích và ký ức lịch sử dần mờ nhạt trong tâm thức cộng đồng cư
dân thành phố và du khách. Cho đến nay khu vực này vẫn là
những “điểm đến” và “điểm nhớ” của người Sài Gòn kể cả những người đã đi xa.
Khu vực Chợ Lớn, tuy sau 1975 có sự biến động lớn về dân cư, nhưng hiện nay còn khá nguyên vẹn
dáng dấp cổ xưa của một “trung tâm” kinh tế sầm uất từ trăm năm trước. Nếu lấy Chợ Bình
Tây làm tâm điểm mở rộng ta sẽ có khu phố cổ Triệu Quang Phục chạy dài tới bến
Hàm Tử, cùng với Thất phủ Quan Võ Miếu, Chùa Bà (Miếu Thiên Hậu) và nhiều ngôi
miếu cổ. Nơi này còn lưu giữ hệ thống di
sản văn hóa vật thể và phi vật thể đặc sắc: các kiến trúc tín ngưỡng như đền
miếu hội quán, lễ hội, phong tục tập quán và những quan hệ xã hội đặc trưng,
nhất là mối quan hệ làm ăn kinh tế.
Nối
liền Sài Gòn và Chợ Lớn là rạch Bến Nghé, kinh Tàu Hũ, Kinh Đôi... hai bên bờ
là hệ thống cơ sở công nghiệp của thành phố: từ nhà máy Ba Son đến những bến
cảng, nhà máy... Đó chính là tính chất đô thị sông nước – hướng biển của Sài
Gòn. Tiếc là từ việc xóa bỏ di tích Ba Son, hệ thống cảng thị ven sông của
thành phố cũng dần biến mất làm ảnh hưởng đến yếu tố “thông thương” của một đô
thị trung tâm kinh tế.
2.
“Sài Gòn là
thành phố sông nước”, đấy là cảnh quan của nhiều thành phố trên thế giới. Và
cũng như những thành phố đó, quá trình “hiện đại hóa” của TP. Hồ Chí Minh để
lại dấu ấn nổi bật nhất là việc cải tạo môi trường và cảnh quan hệ thống kinh
rạch quan trọng của thành phố.
Trong thế kỷ
20, do chiến tranh nên dân nhập cư đổ về thành phố ngày càng nhiều, người nghèo
lập nên những xóm ven kênh lan dần từ ngoại ô vào trung tâm, nhà cửa chen chúc
trên bờ chồm ra kênh rạch. Chất thải, rác rưởi tù đọng dưới sàn nhà, lấp dần
kênh rạch, khiến nước không còn lưu thông được nữa. Mỗi ngày, khi thấy có chút
gió mát thì biết lúc nước lớn, thấy đứng gió nực nội là biết nước ròng.
Bắt đầu từ Rạch
Bến Nghé từ trung tâm thành phố vào Chợ Lớn và nối vào đường thủy về miền Tây,
công trình cải tạo kênh rạch đã mang lại diện mạo mới cho “mặt tiền” thành phố:
kênh rạch được kè bờ thẳng thớm, giải tỏa những xóm nhà lụp sụp thay vào đó là công
viên cây xanh và đại lộ Võ Văn Kiệt. Việc nạo vét kênh rạch mang lại một dòng
nước sạch hơn... Bây giờ vào dịp tết nơi này tổ chức lễ hội “trên bến dưới
thuyền” rực rỡ bông hoa cây kiểng, tấp nập ngày đêm suốt từ rằm tháng chạp đến
ngày 30 tết.
Nhưng công
trình cải tạo kinh rạch Nhiêu Lộc – Thị Nghè để lại ấn tượng đổi thay nhiều
nhất với người dân thành phố. Suốt những năm thực hiện công trình này, gần như
toàn thành phố lâm vào cảnh “kẹt xe tắc đường” triền miên, bất kể giờ giấc thời
tiết... Nhưng rồi cũng đến lúc công trình Nhiêu Lộc – Thị Nghè hoàn thành. Bây
giờ dòng kênh đã sạch hơn mỗi ngày, và gần như không còn tình trạng vứt rác
xuống kênh. Nhất là từ khi hai bên bờ đã được dựng hàng rào sắt, vỉa hè lát
gạch sạch sẽ, trồng cây, trồng hoa, hàng đèn đường vươn cao thanh thoát… Những
chung cư cao tầng mọc lên, dân cư sống tại đây đã quen với việc giữ gìn vệ sinh
công cộng, giữ gìn cảnh quan chung.
Mới đây tuyến
metro số 1 Bến Thành – Suối Tiên đã được khánh thành sau hai tháng vận hành,
sau mười mấy năm xây dựng... Đô thị hiện đại không thể thiếu hạ tầng giao thông
công cộng. Đây là khởi đầu mới cho sự cải thiện về giao thông và môi trường đô
thị, qua đó là nâng cao sức khỏe cho người dân và xây dựng lối sống đô thị, từ việc
chấp hành luật lệ và ứng xử văn minh nơi công cộng.
“Thành phố văn
minh hiện đại” đâu thể có bằng hô hào suông? Cùng với sự chuyển biến của ý thức
cư dân còn cần có những điều kiện vật chất phục vụ cho sự thay đổi ấy, bởi vì
điều kiện sống chưa thay đổi thì khó có thể hình thành lối sống mới. Môi trường
đô thị và lối sống nếp sống của cư dân là hai mặt luôn có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, là tiền đề cho nhau tự hoàn thiện. “Phố của người - người của phố” là
một mệnh đề của xã hội học đô thị hiện đại.
3.
Trịnh Hoài Đức
viết trong Gia Định thành thông chí “Gia Định ở về phương Nam vị trí
Dương Minh, người đủ tính trung dũng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài, dẫu phụ
nữ cũng thế”.
Người Nam bộ,
người Sài Gòn đến nay vẫn bảo toàn được đặc trưng này trong sinh hoạt hàng ngày
và cả trong những hoàn cảnh ngặt nghèo của thành phố, của cả nước. Trong quan
niệm và hành xử của người Sài Gòn/ Nam bộ thường thể hiện hai phẩm chất: trọng
nghĩa khinh tài và sống có tình có nghĩa. Nghĩa là nghĩa khí, dám làm dám chịu,
“thấy sự bất bằng chẳng tha”. Tình là sự khoan hòa, bao dung, “thương người như
thể thương thân”. Trọng nghĩa khinh tài còn là sự hào hiệp
trong việc tiếp đón giúp đỡ người nơi xa đến, không quan tâm đến nguồn gốc “lý lịch” của người đó. Bất kể là
ai đến vùng đất này đều được đón tiếp chia sẻ như nhau. Nếu có chuyện gì xảy ra
thì thường đứng về phía người thân cô thế cô, chống lại kẻ ỷ mạnh ức
hiếp người khác. Thấy việc đúng thì làm không so đo tính toán vì coi đó là làm
việc nghĩa.
Là một đô thị
lớn nhất nước, Sài Gòn cũng là nơi chứa đựng trong nó sự phức tạp nhất nước,
bởi nguồn gốc thị dân và sự biến động dân cư diễn ra hàng ngày, bởi ngành nghề
và những cách kiếm sống đa dạng của người dân nơi đây… Bên cạnh những
chuyện bất an khiến người ta lo lắng, Sài Gòn còn vô vàn câu chuyện để người ta
tin rằng, nghĩa tình ở Sài Gòn không mất đi đâu, nó sẵn sàng hiện ra từ bất cứ
ai và bất cứ lúc nào. Mở lòng với Sài Gòn sẽ nhận được nhiều điều tử tế vì Sài
Gòn không dửng dưng và lạnh lùng như thông tin thường thấy trên báo chí.
Đó là những gì mà 50 năm qua thành phố đã “bảo tồn và phát triển” được. Dù vật đổi sao dời, người tóc bạc hay người đầu xanh, ai từng sống ở Sài Gòn đều mong muốn những gì tốt đẹp, từ di tích lịch sử đến phẩm chất con người Sài Gòn, được lưu tâm gìn giữ, bởi đó là nguồn mạch nuôi dưỡng tâm hồn người Sài Gòn, bồi đắp tình yêu bền chặt với thành phố. Bởi vì nếu không có một Sài Gòn với những di sản văn hóa tốt đẹp thì thành phố Hồ Chí Minh không có nguồn lực phong phú và đa dạng để phát triển mạnh mẽ như hôm nay và trong tương lai.
TP. Hồ Chí Minh 10.3.2025
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét