Các bạn có thể xem lại buổi trò chuyện tại đây https://thuviennguyenanninh.vn/sach/di-tich-khao-co-va-dau-an-gom-sai-gon-trong-dong-chay-lich-su/Video.html
VÀI NÉT VỀ GỐM NAM BỘ
Quá trình khai phá vùng đất mới Nam Bộ từ thế kỷ XVII cho đến ngày nay cũng là quá trình hình thành một loại gốm mới ở miền Đông Nam bộ. Vùng phân bố của loại gốm cổ này nay nằm trong địa bàn của Thành phố Hồ Chí Minh và hai tỉnh lân cận là Đồng Nai và Bình Dương. Từ khoảng đầu thế kỷ 20, khu lò gốm Cây Mai và xóm Lò Gốm Sài Gòn dần ngưng hoạt động. Do quá trình đô thị hóa khu vực Sài Gòn, Chợ Lớn, các lò gốm lần lượt chuyển ra các tỉnh lân cận, nhiều nhất là vùng Biên Hòa (Đồng Nai) và Lái Thiêu (Bình Dương). Nửa sau thế kỷ 20, gốm gia dụng và gốm mỹ nghệ Biên Hòa, Lái Thiêu đã dần thay thế vai trò của gốm Sài Gòn.
So sánh với vùng gốm Bắc bộ (gốm Chu Đậu, Bát Tràng…) và Trung bộ (Gò Sành, Châu Ổ, Quảng Đức…) thì vùng Gốm Nam bộ có sự khác biệt về loại hình sản phẩm, kỹ thuật và quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ. Quá trình phát triển của nghề làm gốm truyền thống ở khu vực miền Đông Nam bộ cho ra đời các loại gốm được biết dưới các tên gọi là gốm Sài Gòn/gốm Cây Mai, gốm Biên Hòa và gốm Lái Thiêu. Đây cũng là ba dòng gốm cổ có mối liên hệ mật thiết từ những đặc trưng chung về kỹ thuật sản xuất mang tính chất “văn hóa vùng”. Đồng thời phát triển và tạo nên những đặc trưng riêng từ sản phẩm, kiểu dáng, màu men, hoa văn…
Gốm Sài Gòn: Gốm Cây Mai (khu lò Cây Mai ở khu vực gò Cây Mai quận 11), Xóm Lò Gốm (làng Hòa Lục, Phú Định quận 6, quận 8); Sài Gòn là địa danh xưa chỉ khu vực Chợ Lớn ngày nay – nơi có Xóm Lò Gốm ghi trên bản đồ và trong sử sách.
Gốm Biên Hòa: làng gốm Tân Vạn (khu lò lu, lò sành)…; gốm từ trường Mỹ nghệ Biên Hòa, muộn hơn là những cơ sở sản xuất gốm hiện nay.
Gốm Lái Thiêu: làng gốm Lái Thiêu, Tân Phước Khánh và Chánh Nghĩa... sau này là gốm Minh Long và những lò gốm thủ công hiện còn sản xuất.
Những tên gọi này tương đương như tên gọi của Gốm Bát Tràng, Gốm Chu Đậu, gốm Đông Triều... ở miền Bắc, gốm Gò Sành, Châu Ổ ở miền Trung... Vừa chỉ địa danh dân gian cụ thể, vừa cho biết không gian của một “vùng gốm cổ”. Mỗi vùng gốm có đặc trưng riêng và thịnh đạt vào những thời điểm khác nhau, song như những chi lưu tất cả cùng hòa vào và tạo nên dòng chảy “Gốm Nam Bộ”, có thể đối sánh với những vùng sản xuất gốm nổi tiếng khác trong nước. Mặt khác, khái niệm hành chính “Nam bộ” xuất hiện muộn hơn nghề làm gốm ở đây, vì vậy cần phân định rõ “gốm Nam bộ là 3 dòng gốm cổ: gốm Sài Gòn, Biên Hòa, Lái Thiêu”, để phân biệt với gốm sản xuất tại các tỉnh Nam bộ từ nửa sau thế kỷ 20.
Sản phẩm gốm Nam bộ mang tính ứng dụng cao, đáp ứng mọi nhu cầu của xã hội, nhu cầu hàng ngày của giới bình dân và cả tầng lớp cao hơn. Đó là nhóm đồ gốm dùng chứa đựng (lu, hũ, khạp, chậu…), nấu nướng (nồi, ơ, siêu, ấm…), ăn uống (đĩa, bát, tô, bình trà bình rượu, ly, cốc, ống nhổ, ống đũa…), nhóm đồ dùng trong sinh hoạt tinh thần (tượng thờ, chân đèn, đèn gốm, lư hương, mâm bồng, ống bút…), nhóm gốm trang trí nội ngoại thất (đôn, chậu, gạch bông gió, lan can, tượng thú…), nhóm xây dựng, trang trí kiến trúc (gạch, ống nước, quần thể tượng gốm, phù điêu…). Loại hình, kiểu dáng của sản phẩm gốm kiểu dáng phong phú, đa dạng và có xu hướng “hiện đại”.
Những bộ sưu tập gốm Sài Gòn hay gốm Lái Thiêu, Biên Hòa đều cho thấy hầu hết sản phẩm rất đẹp nhưng đều có dấu vết đã qua sử dụng. Tức là, sản phẩm từ lúc làm ra cho đến khi người ta chứng minh được giá trị của nó xứng đáng để sưu tập đồ cổ thì luôn được “tham gia vào cuộc sống” chứ không tách ra riêng biệt “để thưởng ngoạn” như một số dòng gốm khác. Điều này thể hiện tính cách, cá tính của người Nam Bộ là làm bất cứ một vật gì cũng hướng đến tính ứng dụng thực tế, chứ không trưng bày, trang trí thuần túy.
Sản phẩm, trang trí và kỹ thuật sản xuất từ gốm Sài Gòn đến gốm Biên Hòa, Lái Thiêu thể hiện cụ thể “Đất nào, nước nào phong thổ nào thì con người đó, mà con người nào thì sản phẩm đó. Người Nam Bộ làm ra gốm Nam Bộ, cởi mở đón nhận nhưng vẫn giữ được nét đặc sắc vốn có của mình”. Tính chất cởi mở, tiếp nhận kỹ thuật mới và sáng tạo sản phẩm mới đã góp phần vào sự phát triển kinh tế thị trường từ rất sớm của vùng đất Nam bộ. Nhiều đồ gốm có hiệu đề còn cho biết tên lò, người đặt hàng hay các tiệm bán đồ gốm, có minh văn phản ánh ước mong một cuộc sống sung túc, bình an.
Gốm Nam bộ phản ánh một giai đoạn lịch sử ở Nam bộ: từ những sản phẩm dành cho người bình dân phổ biến ở giai đoạn khai phá (thế kỷ 18) đến các loại sản phẩm cao cấp hơn kiểu Trung quốc, kiểu Pháp (thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20) phục vụ giới thượng lưu hoặc dịp đặc biệt của giới bình dân khi xã hội phát triển… Dù bình dân hay cao cấp thì kỹ thuật tạo dáng và tạo hoa văn, màu men… trên mỗi sản phẩm đều phản ánh nhu cầu thưởng lãm của mỗi tầng lớp.
Các sưu tập cổ vật chỉ thực sự có giá trị khi nó đến được với nhiều người. Cuộc trưng bày "Du xuân - Cổ ngoạn" Xuân Giáp Thìn 2024 của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những cuộc trưng bày về Gốm Nam bộ được công chúng nhiệt tình đón nhận. Những hiện vật được trưng bày có giá trị cao về lịch sử - văn hóa, giúp quảng bá, giới thiệu gốm cổ Nam Bộ tới với đông đảo công chúng. Nhờ vậy những giá trị quý báu của di sản văn hóa Nam bộ được phổ biến rộng rãi hơn trong xã hội
TS. Nguyễn Thị Hậu. Trong sách DU XUÂN - CỔ NGOẠN - của Bảo tàng TPHCM.










Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét