Nhớ xe đạp mini
Bây giờ trên đường phố Sài Gòn hiếm khi nhìn thấy
chiếc xe đạp mini.
Khoảng những năm 1970 – 1980 là thời hoàng kim của
xe đạp mini và kiểu áo dài “hippi”.
Thời ấy nữ sinh thường mặc áo dài trắng, tà hẹp và ngắn khoảng ngang đầu gối,
quần ống rộng và đi xe đạp mini, đó là một hình ảnh quen thuộc và rất đẹp của
Sài Gòn.
Quả thật, xe đạp mini rất hợp với các thiếu nữ mái
tóc thề ngang lưng và tà áo dài bay bay trong gió. Áo dài không ôm sát mà xẻ eo
cao hơn lưng quần, khi ngồi xe không cần lót tà xuống yên xe cho kín đáo, tà áo
buông thả nhưng không lo bị quấn vào bánh xe, nhờ vậy hai tà áo cứ lượn lờ, thi
thoảng hé lộ chút eo thon hay khoảng lưng mịn màng… Sáng sớm hay chiều tà, trên
đường có những nàng thiếu nữ thong thả đạp xe phía trước, thế nào cũng có chàng
trai theo sau, chưa kể nhiều người đi qua còn ngoái lại nhìn…
Nếu chiếc áo dài mini với hai tà ngắn và hẹp, cổ áo
thấp, tay lửng tạo nên sự thoải mái và năng động cho các nàng thì khi mặc với
kiểu quần tây ống loe rộng, dài phủ đôi guốc cao, đạp xe mini lại tạo nên vẻ
dịu dàng đằm thắm. Chiếc xe mini vành bánh nhỏ, yên xe và tay lái khá cao tạo
sự thoải mái cho người đi xe, ngồi trên xe thì lưng thẳng chân dài… Nếu khi đi
bộ “Em không dám đi mau, ngại chàng
chê hấp tấp, số gian nan không giàu” thì đi xe mini cũng ít cô nào vội
vàng. Cứ từ từ thong thả vòng bánh xe quay cùng lá me bay, chiếc giỏ xe phía
trước là cặp sách, có khi có chiếc nón vải gấp lại gọn gàng. “Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng”
làm rối lòng không biết bao nhiêu chàng trai mỗi khi hè tới. A mà bồ bịch chở
nhau bằng xe mini tình cảm hết biết: nàng ngồi phía sau “miệng cười khúc khích trên lưng” chàng, tay ôm hờ eo chàng. Còn
chàng, một tay lái xe một tay nắm tay nàng… Đi xe mini an toàn, có chuyện gì
thì chàng chống hai chân xuống đất chẳng lo té ngã.
Ở miền Bắc trước năm 1975 hoàn toàn không có xe đạp
mini, thỉnh thoảng trên phố thấy có chiếc xe đạp thiếu nhi Liên xô dân quen gọi
là xe “pơ giô con vịt”. Sau 1975 xe mini ra Bắc không nhiều, hình ảnh các anh
bộ đội đi tàu Thống Nhất vác theo cái khung xe đạp buộc con búp bê nhắm mở mắt
quen thuộc gần chục năm sau chiến tranh. Còn ở Sài Gòn mặc dù có xe mini Nhật
nhưng phần lớn xe đạp đều do nhà máy ở bên khu Khánh Hội sản xuất, với những
nhãn hiệu quen thuộc như LUX, MOTOBECANE… Xe đạp mini thường có màu đỏ, màu
trắng rất hợp với đồng phục học sinh. Hầu như mỗi nhà đều có một, hai chiếc xe
mini cho con đi học. Nhà khá giả thì có xe gắn máy nhưng học sinh trung học rất
ít người dùng, phần lớn người đi xe gắn máy là người đã đi làm hay sinh viên.
Cho đến những năm 1990 xe máy ít dần, xăng dầu khan
hiếm, xe đạp càng trở nên phổ biến nhiều loại xe lớn, xe mini không được ưa
chuộng như trước. Lúc này ai cũng vất vả làm ăn, đi xe lớn nhanh hơn, chở được
nhiều hơn. Một chiếc xe đạp gắn thêm ghế nhỏ phía trước là chở được “cả hộ
khẩu” trên xe, gồm vợ chồng và một, hai đứa con. Chiếc xe đạp lúc đó cũng như
một gia tài chứ không chỉ là phương tiện bình thường.
Rồi đến lúc xe máy Trung quốc ồ ạt tràn vào, “đánh
bạt” xe Dream Thái xe Daelim Hàn, xe cup “nghĩa địa” Nhật… Các loại xe đạp cũ
biến mất. Sài Gòn có xe đạp Martin 107, lúc đầu lắp ráp xe lớn nhưng sau có
thêm xe mini. Sau khi nhà nước quy định học sinh trung học chưa đủ tuổi đi xe
máy thì thị trường xe đạp sôi động hơn, nhưng cũng ít người chuộng xe mini như
trước.
Bây giờ trên đường thành phố là xe hơi xe máy, vội
vã ồn ào chen chúc… Đâu ai thích đi xe đạp nữa? Áo dài mới được hồi sinh nhưng
hoặc là kiểu cổ điển sang trọng hoặc “cách tân” ngắn ngủn cứng đơ. Cả hai kiểu
đều không thích hợp với chiếc xe đạp mini giản dị, năng động mà dịu dàng. Hình
ảnh “tà áo em bay bay trên phố ” chỉ
còn là ký ức…
Hẻm hoa lan
Hẻm nhỏ này không phải là đường Hoa Lan bây giờ ở
khu Phan Xích Long, Phú Nhuận. Nhiều người sống ở Sài Gòn trước năm 1975 biết
con hẻm ngắn này, nó nằm trên đường Trần Quý Cáp (nay là đường Võ Văn Tần).
Hồi đó hẻm Hoa Lan tuy là đường dẫn vào nhà một “ông
lớn” nhưng trong hẻm vẫn sinh hoạt bình thường. Phía đầu hẻm là một quán cơm
bình dân bán vào buổi trưa, bên cạnh là xe bán cà phê nước ngọt. Đối diện có “vựa”
nước đá là những chiếc kệ gỗ lớn bên trên chất đầy nước đá cây, phủ bạt. Rồi thời
gian sau ở đầu hẻm có thêm ông sửa xe máy xe đạp, xe trái cây cóc ổi xoài mía
ghim… Buổi sáng khách ngồi uống cà phê đọc báo, buổi trưa quán cơm đông khách,
bàn ăn dọn cả dưới tán cây điệp khá lớn trong hẻm. Thỉnh thoảng có chiếc xe hơi
màu đen sang trọng từ từ ra vô, chờ cho khách đứng lên đẩy lui mấy bộ bàn ghế
nhựa cho xe đi qua, dù hẻm đông người bác tài cũng không bấm còi giục giã mà
còn vui vẻ gật đầu cám ơn mọi người. Khách quen cũng giơ tay chào lại rồi bình
luận, hôm nay ổng đi trễ hén? ủa bữa nay không thấy ổng… “Ổng” là chủ nhân ngôi
dinh thự rất đẹp trên một khuôn viện rộng ở cuối hẻm.
Thật ra phần lớn khách biết hẻm này là từ quán cơm
bình dân. Không biết quán có từ bao giờ nhưng người sống quanh đó đã quen với cảnh
hai vợ chồng chủ quán lui cui dọn hàng từ 7,8 giờ sáng. Quán che mái ghé vào bức
tường ở một bên hẻm, mấy bộ bàn ghế nhựa cuối ngày xếp gọn gàng, ba bốn ông lò
lớn dùng than đước. Chỉ có nồi cơm lớn là nấu sẵn ở nhà và xe ba gác chở tới
vào khoảng 10g, được ông chủ đặt lên cái bếp lớn bên dưới than hồng riu riu cho
cơm nóng, ai ăn trễ vào cuối giờ trưa sẽ
được thêm miếng cơm cháy mỏng giòn tan. Thức ăn chén bát phụ gia… chở tới
từ sáng sớm, xào nấu tại chỗ thơm phức. Xế chiều lại dọn tất cả về nhà. Công chức
ở công sở gần đó, học sinh trường Lê Quý
Đôn, Marie Curie, các bác chạy xích lô, taxi… là khách hàng thường xuyên của
quán, chưa kể nhiều người ghé mua cơm mang về nhà ăn.
Cơm trưa ở đây thường có hai, ba món mặn, một hai
món canh, mấy món xào, rau sống… đơn giản nhưng rất ngon và rẻ. Một dĩa cơm
(cơm thêm và trà đá, chuối tráng miệng không tính tiền) với đĩa lươn xào xả ớt
hay xào lăn, tô canh chua lươn bắp chuối rau muống chỉ 20 đồng tiền Việt Nam cộng
hòa (lúc đó chưa đổi tiền, mì gói 2 tôm chỉ có 10 đồng một gói). Những món ngon
của quán, ngoài món lươn kể trên còn có cá trê chiên dầm nước mắm gừng, khô cá lóc chiên với nước mắm xoài
bằm, khổ qua xào trứng hay khổ qua hầm thịt, tép rang nước dừa… tất nhiên không
thể thiếu thịt kho hột vịt dưa chua dưa giá ăn với canh cải xanh thịt bằm, hay
canh chua cá khô tộ… Những món ăn rặt Nam bộ nhưng quyến rũ khẩu vị của nhiều
người.
Bây giờ khu vực này đã thay đổi nhiều, nhà cao tầng
mọc lên thay thế những căn nhà phố hay biệt thự, công sở văn phòng ngân hàng
san sát, nhà hàng và quán cà phê dày đặc… Nhiều dân cư mới thay thế dân trong hẻm
Hoa Lan, lớp khách cũ cũng không còn lui tới nơi đây vì những chủ quán xưa cũng
không còn. Dinh thự trong hẻm từ lâu đã vắng người ra vô.
Sài Gòn có hàng ngàn hẻm nhỏ, từ những khu biệt thự
trên con đường lớn hay ngang dọc khu bàn cờ, trong xóm nhà lá trên kinh rạch… Hẻm
là một phần của đời sống đô thành Sài Gòn, nơi đây hòa hợp giữa lối sống đô thị
và làng quê tứ xứ. Người trong hẻm là quan chức hay bình dân, công chức hay
buôn bán, sĩ quan nhà binh hay chạy xích lô… ra vô gặp mặt chào hỏi thân tình,
gặp chuyện thì qua lại phụ giúp. Không gian hẻm là “của chung” ai sử dụng cũng
được, miễn là giữ gìn sạch sẽ và đừng gây phiền hà cho người qua lại. Đặc biệt
những quán cơm bình dân trong hẻm vừa ngon vừa rẻ, lại “đậm đà bản sắc” vùng miền
của cộng đồng dân cư ở khu vực đó. Khách sành ăn thường tìm đến quán cơm hẻm mà
khách lạ đến một lần thì nhớ mãi.
Nhiều người nói rằng chỉ cần một lần bước chân vô
những con hẻm của Sài Gòn là có thể cảm nhận được về cuộc sống và con người
thành phố này. Hẻm Hoa Lan là một trong muôn vàn hẻm phố như vậy ở Sài Gòn.
Ai bún bì... hông...
Hồi cuối năm bảy lăm nhà tôi ở một con đường gần
Lăng Cha Cả. Con đường nhỏ nhưng dài hai bên là dãy nhà phố xen lẫn những biệt
thự kín cổng nhưng tường không cao, thường là hàng rào bông giấy xanh mướt rợp
hoa đỏ hoa tím. Những con hẻm cụt chỉ có
vài ba nhà, đất vườn rộng trồng cây ăn trái, cây kiểng…
Cuối đường là một cái chợ trời bán đồ điện máy, nhiều
nhất là quạt điện, máy may, xe Honda, dàn Akai nghe nhạc… Rồi bàn ghế nồi niêu
xoong chảo, chén dĩa kiểu bán cả bộ có, lẻ bộ cũng có. Đó là đồ đạc từ những
ngôi nhà vắng chủ ở xung quanh, có người
ăn trộm mà người ăn kẻ ở lấy bán cũng có… Thời buổi lộn xộn, người bỏ đi rồi giữ
được cái nhà là may, đồ đạc còn ai dùng mà giữ? Sau vài năm cái chợ trời này
cũng tự giải tán, chắc vì không còn “chà đồ nhôm” (chôm đồ nhà) được nữa.
Trên con đường ấy mỗi xế chiều khoảng hai, ba giờ lần
lượt có những gánh hàng rong đi qua, tiếng rao đủ cung bậc trầm bổng. Đầu tiên
là chị bán chè “ai chè đậu xanh, đậu trắng, táo xọn chè thưng bột báng nước cốt
dừa hông…”. Chị đi qua rồi mà tiếng rao vẫn ngân nga trong hẻm nhỏ. Kế đến là
anh bán bánh “chưng giò tét đây” cất tiếng cụt lủn nhưng vui vẻ
xen với tiếng chiếc xe đạp của anh kêu lọc xọc… Anh chưng giò tét còn vòng lại
vài lần tới khuya, lúc nào cũng có bánh nóng hổi. Rồi bà bắp nấu giọng khan
khan đẩy cái xe hai bánh có thùng bắp bốc hơi nghi ngút, chị đậu hũ giọng bắc
thanh thanh đi qua rồi mà mùi nước đường thốt nốt thơm mùi gừng còn vương lại, tiếng rao của bà bán bánh ướt chả lụa mới nghe ai cũng tưởng là “sách bút đả bộ” không hiểu bán gì,
vì bà gốc người Hoa nói tiếng Việt lơ lớ. Mỗi khi một tiếng rao vang lên người
trong phố có thể đoán biết là mấy giờ, kể cả khi trời mưa cũng ít khi sai lệch.
Chỉ có một người thất thường, khi trưa khi chiều,
có khi sẩm tối… dù vậy nhưng bao giờ bà cũng bán hết hàng nhanh chóng. Đó là bà
bún bì. Giọng miển Tây cất tiếng rao nhỏ nhẹ “ai bún bì… hông…bún bì
đây…”. Người trong phố nói bà mới xuất hiện khoảng nửa năm, nghe nói chồng đi
lính mà mấy ngày cuối cuộc chiến không thấy về nhà, chẳng biết sống chết thế
nào đi ở ra sao. Dưới quê lộn xộn không làm gì được, bà gửi bầy con
cho bên ngoại rồi lên thành phố với gánh bún bì, vừa kiếm sống vừa tìm chồng.
Món bún bì khá mất công. Khi có người ăn bà bán bún
bì hạ đôi gánh xuống, lấy ra chiếc thớt nhỏ bằng gỗ me và dùng chiếc khăn trắng
tinh lau qua, lấy mấy miếng da heo luộc chín và dùng một con dao bén ngọt bà
khéo léo lạng da heo thành từng lát mỏng dính, rồi nhanh tay sắc thành sợi nhỏ.
Đến miếng thịt heo khìa nước dừa ngà màu nâu rất hấp dẫn bà cũng làm như vậy.
Thịt khìa phải là thịt đùi vừa mỡ vừa nạc mềm mà không khô.
Để thịt và bì đã xắt vào một chiếc tô, bà xúc một
muỗng thính gạo thơm lừng, thêm chút tỏi bằm nhuyễn, chút muối chút đường, trộn
đều lên. Lấy chiếc tô khác bà bỏ vô rau sống dưa leo cũng sắt sợi cùng với giá sống, miếng bún đủ ăn, rồi để bì đã trộn lên trên. Chan một
muỗng nước mắm pha tỏi ớt, vậy là đã sẵn sàng cho người ngồi đợi đang hít hà
mùi thơm của tô bún bì. Sợi bún và cọng giá trắng tinh lẫn với sợi thịt sợi bì
màu nâu, sợi rau màu xanh, điểm lát ớt đỏ tỏi trắng ngà… hấp dẫn quá chừng. Bởi
vậy bất cứ lúc nào nghe tiếng rao bún bì hông bì bún đây… thì khách quen không
ai bỏ qua được. Món bún bì ăn nhẹ, dễ tiêu lại kích thích khứu giác thị giác và
cả vị giác nữa.
Đây là món ăn dân dã miền quê Nam bộ nhà nào cũng
biết làm. Chỉ trong chốc lát qua đôi tay người mẹ ngưới chị khéo léo lạng da xắt
thịt thì sẽ có ngay bữa bún bì đãi khách hay lót dạ buổi xế.
Bây giờ ít ai tự luộc và xắt bì vì khó làm, vì ngoài chợ đã có bán bì xắt bằng máy, sợi
dài thòn đều như một, ăn dai mà mất đi cái vị giòn của miếng bì tự xắt ăn ngay. Mà cũng không thấy còn ai bán
bún bì dạo như ngày xưa...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét