PHỤ LỤC
MỘT SỐ NGHỆ SĨ PHỔ BIẾN,
CẢI BIÊN VÀ SÁNG TÁC BÀI BẢN
- Một số tay đờn tài hoa
của xứ Huế như ông Dùng, ông Tam … mang vào Nam những bài bản cổ nhạc sẵn có
của xứ Huế như: Lưu thủy, Kim tiền Huế, Hành vân Huế, Nam Xuân, Nam Ai, Xuân tình
…
- Khi những bài bản ấy
được phổ biến thì các tay khoa bảng của miền Nam như Phan Hiền Dạo, Tôn Thọ
Tường (từng du học đất Huế), Trịnh Hoài Nghĩa (giáo thọ dạy chữ nho trường
trung học Mỹ Tho khoảng năm 1907) cũng dựa trên cơ sở đó mà lần lượt soạn ra
những bản Lưu thủy, Phú Lục, Xuân tình, Hành vân theo lối cổ nhạc miền Nam.
- Các thầy đờn gốc ở đất
Quảng như cha con ông Nguyễn Liêng Phong cũng mang vào Nam một số bài
ca Huế được cải biên. Con ông Nguyễn Liêng Phong là Nguyễn Tùng Bá (tức Tư Bá)
có soạn tập bản đờn kìm (khoảng 20 bài), xuất bản trước năm 1923. Sau đó ông Bá
xuống Sóc Trăng dạy đờn.
- Ông Trần Quang Quờn đã
phổ biến 10 bản ngự của Huế: Phẩm tuyết, Nguyên tiêu, Hồ quảng, Liên huờn, Bình
bán (tức Bình nguyên), Tây mai, Kim tiền, Xuân phong , Long hổ, Tẩu mã và đặt
cho cái tên là Thập thủ liên huờn.
- Năm 1899, khi vua
Thành Thái vào Sài Gòn thì ông Ba Đợi (tức Nguyễn Văn Đại) người miền Trung vào
ngụ ở Cần Đước, Long An đã sáng tác ra 8 bài ngự, dùng vào cuộc hòa tấu để
nghênh giá. Mục đích làm những bài này để giãi tỏ với vua Thành Thái – một ông
vua có tư tưởng yêu nước chống Pháp – nỗi khổ của người dân miền Nam sống dưới
ách nô lệ, 8 bài gồm:
1) Đường
Thái Tôn (ám chỉ vua Thành Thái).
2) Vọng
phu (trông chồng, ngụ ý người miền Nam mong ngày giành lại quyền tự
chủ cho đất nước).
3) Chiêu
quân (Chiêu quân cống Hồ, ám chỉ 6 tỉnh miền Nam đã giao cho Pháp).
4) Ái
tử kê (thương đàn gà con mất mẹ, ám chỉ người dân mất nước).
5) Bát
man tấn cống (tám nước nhỏ triều đình, ngụ ý thời xưa oanh liệt).
6) Tương
tư (nhớ mong hoặc nhớ thời đất nước còn chủ quyền, hoặc nhớ người yêu nước trôi
dạt phương xa).
7) Duyên
kỳ ngộ (vừa có ý nói nỗi mừng gặp vua vừa có ý nói mong đợi ngày đất nước đoàn viên).
8) Quả
phụ hàm oan (trở lại cảnh trước mắt: tiếng kêu oan của người vợ mất chồng).
- Có tài liệu chép: Ông
Ba Đợi còn sáng tác các bài: Giang nam, Phụng hoàng, Tứ đại, Phụng cầu …
Ông Hai Khị sáng tác ra
các bài: Ngự giá đăng lâu, Ái tử kê.
Ông Trần Quang Quờn và
ông Đặng Nhiều Hơn (Mười Hơn) sáng tác ra bài Văn Thiên Tường. Ông Quờn còn
sáng tác ra bài Bình sa lạc nhạn.
- Ông Phụng Hoàng Sang
đã soạn tập sách dạy đờn ca (Nhà in Đinh Thái Sơn 1909). Các ông Phạm Đăng Đàn,
Nguyễn Tùng Bá, Đỗ Văn Y đã soạn các tập sách dạy đờn ca: Tứ tài tử, Lục tài
tử, Bát tài tử, Thập tài tử (Nhà in Phát Toán 1915).
MỘT SỐ BAN NHẠC TÀI TỬ
NỔI TIẾNG
1) Ban Kinh Lịch Quờn ở
Vĩnh Long do ông Trần Quang Quờn từng làm chức Kinh Lịch thành lập.
2) Ban Tư Triều do ông
Nguyễn Tống Triều ở Cái Thia, Mỹ Tho, một nghệ sĩ đờn kìm nổi tiếng thành lập
vào khoảng năm 1901. Trong ban này có những nghệ nhân như: Chín Quán (đờn độc
huyền), Mười Lý (thổi tiêu), Bảy Vô (đờn cò), cô Hai Nhiễu (đờn tranh), cô Ba
Bắc (ca). Phần lớn những tài tử này được chọn đi trình bày nhạc cổ
Việt Nam tại cuộc triển lãm thuộc địa Pháp năm 1910. Sau đó thầy Hộ
chủ rạp chiếu bóng Casino ở sau chợ Mỹ Tho, muốn cho rạp mình đông khách bèn
mời ban tài tử Tư Triều đến trình diễn mỗi tối thứ bảy và thứ tư trên sân khấu,
trước lúc chiếu bóng được khán giả hoan nghênh nhiệt liệt.
3) Ban Bảy Triều do ông
Trần Văn Triều (1897 – 1931) ở Vĩnh Kim, Mỹ Tho, một nhạc sĩ đờn cò nổi tiếng
thành lập. Ông là con trai ông Năm Diệm tên thật Trần Quang Diệm (1853 – 1925)
cũng là một nhạc sĩ đờn tỳ. Em gái ông Bảy Triều là cô Ba Viện tức Trần Ngọc
Viện cũng nổi tiếng với cây đờn tranh, ngoài ra còn sử dụng được đờn tỳ và thập
lục.
4) Ban Ba Chột ở Bạc
Liêu. Ông Ba Chột là một nghệ sĩ đờn đàn đoản và đờn sến nổi tiếng, con trai
ông Hai Khị làm chức Nhạc sanh (đứng đầu ban cổ nhạc) cho nên còn gọi là ông
Nhạc Khị. Ông Nhạc Khị bị đau cổ xạ, ngón tay co rút và ngo ngoe rất khó. Vậy
mà ông có tài ngồi trong mùng và chơi một lúc nhiều thứ nhạc khí như: trống,
kèn, đờn, chụp chõa… khiến người ngồi bên ngoài tưởng có cả một dàn nhạc hòa
tấu.
5) Ban Ái Nghĩa ở Phong
Điền, Cần Thơ.
6) Ban Bảy Đồng ở Sa Đéc
gồm các nghệ nhân Bảy Đồng (kìm), Chín Dì (cò), Năm Tần (đoản), Hai Lời (tiêu),
Mười Nho (tranh) …
MỘT SỐ NHẠC SĨ NỔI TIẾNG
1) Ông
Cao Huỳnh Diêu
2) Ông
Cao Huỳnh Cư
3) Ông
Mười Nhường
4) Ông
Mười Lý
5) Ông
Tư Khôi
6) Ông
Mười Khói
7) Ông
Phạm Đăng Đằng
MỘT SỐ CA SĨ NỔI TIẾNG
1) Ông
Bảy Kiên
2) Cô
Ba Đắc (trong ban Tư Triều)
3) Cô
Bảy Lùng
4) Cô
Tám Sâm
5) Cô
Ba Niệm
6) Cô
Ba Điểu
7) Cô
Hai Cúc (trong ban Bảy Đồng)
MỘT SỐ NHẠC SĨ CÓ NHIỀU
TÌM TÒI TRONG VIỆC SỬ DỤNG
VÀ CẢI CÁCH NHẠC CỤ
- Trần Quang Cảnh (Bảy
Cảnh) làm trưởng tòa ở Sóc Trăng, sử dụng violon đầu tiên. Thày Bảy Thông dạy
trường Bố Thảo (Sóc Trăng) sử dụng mandoline đầu tiên.
- Năm 1920: Trần Văn
Huờn (Ký Huờn) ở Mỹ Tho đã thử cải cách đờn gáo thành hồ hai bầu.
- Năm 1920: Giáo Tiên
(Rạch Giá) dùng cây guitare và mandoline móc phím để đàn nhạc tài tử.
- Năm 1925: Sáu Tài sử
dụng cây violon.
- Năm 1927: Bảy Thạch sử
dụng cây guitare Hawaienne.
- Năm 1927: Tư Niệu sử dụng
cây violoncelle.Nguyễn Ngọc Bạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét