II. Nguyên nhân nội tại
Đòi hỏi về mặt xã hội và
thẩm mỹ là một chuyện, còn bản thân một nghệ thuật có đáp ứng được yêu cầu đó
hay không lại là một chuyện khác. Chúng ta đã thấy nhiều loại hình âm nhạc
không đủ điều kiện trở thành cơ sở để hình thành một kịch chủng mới vì thiếu
những yếu tố nhất định. Nhạc tài tử sở dĩ có thể trở thành cơ sở để hình thành
nghệ thuật sân khấu cải lương là nhờ có những đặc điểm sau đây:
A – VỀ NỘI DUNG :
a) Tính hiện thực :
Tách ra khỏi nhạc lễ,
dàn nhạc tài tử với nhạc dây, khảy, kéo, đã có đủ điều kiện thể hiện cuộc sống
lao động của nhân dân không bị bó chết trong một khuôn khổ lễ nghi cúng bái.
Tính chất thần linh đã mất đi ngay trong giai điệu của nó. Với sự xuất hiện của
lời ca bổ sung cho ngôn ngữ âm nhạc, nhạc tài tử càng có khả năng phản ảnh hiện
thực xã hội lúc bấy giờ. Trong bài Tứ đại Khổ sai Côn Hồn của Nguyễn Tùng Bá
(tập Bát tài tử, xuất bản ngày 29-8-1915) tố cáo thực dân Pháp đầy đọa con
người ở chốn “địa ngục trần gian”:
Núi Côn Nôn hải đảo giữa
vời
Tội nhơn ra đó trăm ngàn
Chịu cơ hàn nỗi nằm nỗi
ăn
Thương thay cực khổ khôn
ngăn
Sớm đi làm tối về trối
trăn
Đất trời thấu chăng …
Bài Tứ đại Bài ca đi Tây
(tập Thập tài tử xuất bản ngày 15-6-1915) kể chuyện một “giáo quan” ở Tân An
quyết chí đi Tây để biết xứ sở văn minh nó ra thế nào, không ngờ sang tới nơi
“làm té ra bạc ngàn, bị điếm đầm chẳng còn bao nhiêu” đến khi về nước thì:
Mẹ con cha vợ ra mừng
Vật một heo mà đãi tiệc
Mời tổng mời làng
Thiên hạ dập dìu
Dầu đông đã nên đông
Đến nay tiền hết bạc
không
Thầy trở lại Sài Gòn
Việc làm ăn gia đạo bất
bình
Anh em bạn cũ, chẳng ai nhìn
tới ai.
Bài Tứ đại Văn minh của
Hoàng Huấn Trai (tập Thập tài tử Đặng Đức Lợi) cổ động cho phong trào Duy Tân:
Lời dám khuyên cùng
chúng ta
Học đời Đông A
Cũng giống như da vàng
Bạn đồng bang
Ráng mà kêu nhau thức
dậy
Đừng có ngủ mê man
Á bang hỡi đồng bang
Xin bớt làng tranh làm
quan
Hãy hiệp hùng buôn bán
Cho rành nghề tính toán
Rồi cũng thấy vô bạc
ngàn …
Bài Tứ đại Cảnh phó ca
của Trương Duy Toản (Lục Tỉnh Tân Văn, số 24 ngày 30-4-1908), ca ngợi Cuộc Minh
Tân do Trần Chánh Chiếu chủ trương đồng thời phản đối thực dân Pháp phế truất
vua Thành Thái, một ông vua có tư tưởng yêu nước chống Pháp:
Việt Nam nay
rõ
Thiếu chi anh hào
Đương hiệp chúng đồng
bao
Mà tranh đoạt lợi quyền
Rất nhộn nhàng
cõi Nam Trung
Khen ai cũng thung dung
Cứ đỏng đưa theo năm
giọng
Bao biển triều đường
Trách quở tiên vương
Thấy chẳng thiên thương
…
Qua một vài ví dụ trên,
chúng ta thấy lời ca của nhạc tài tử đã góp phần phản ảnh hiện thực đương thời
và nhiều bài có nội dung yêu nước, tiến bộ. Nhất là sau khi phong trào Duy Tân
bị thực dân Pháp đàn áp, một số chí sĩ bị Pháp bắt đi đày hay quản thúc, tham
gia soạn lời ca thì những bài ca mang ẩn ý chống Pháp lại càng nhiều. Khi
Trương Duy Toản, chiến sĩ của phong trào Duy Tân, bị quản thúc tại làng Nhơn Ái
(Phong Điền, Cần Thơ) đã soạn nhiều bài ca trong đó có bài Hà bất úy như hề, kể
chuyện người thà bị hổ ăn thịt chứ không chịu dời đi nơi khác, vì nơi đang ở
không có chính trị hà khắc, qua đó nhằm phê phán chính trị của thực dân Pháp.
b) Tính trữ tình:
Nhạc tài tử còn có nhiều
ưu thế trong việc thể hiện tâm tư, tình cảm của nhân dân, nhất là nhân dân ở
một vùng đất rộng lớn xa triều đình, bị phong kiến bóc lột, sau đó lại bị thực
dân đày đọa nhưng luôn luôn mang tinh thần hào khí, nghĩa hiệp chống áp bức bất
công … Năm 1899 khi vua Thành Thái vào Sài Gòn thì ông Ba Đợi đã sáng tác 8 bài
ngự với mục đích giải tỏ với vua Thành Thái về nỗi khổ của người dân miền Nam
sống dưới ách nô lệ trong đó có bài Ái tử kê (thương đàn gà con mất mẹ), Quả
phụ hàm oan (tiếng kêu oan của người vợ mất chồng). Trong bài Hành vân thể hiện
tâm sự của Từ Hải, Trương Duy Toản đã viết:
Mật yêng hùng, mật yêng
hùng
Giống Triệu Trường Sơn
Đường cung kiếm. Cái chí
nam nhi
Núi sông là phận. Từ đây
quyết
Vẫy vùng cho sóng dậy
trần ai
Tài oanh liệt, mấy ngọn
gươm vàng
Rạch một sơn hà, mặc dầu
ngang dọc
Giữa trời đây sợ ai …
Đọc những câu trên không
thể không liên tưởng đến tâm sự của người yêu nước muốn vùng lên chống Pháp đòi
lại đất nước. Hay trong bài tứ đại oán Bùi Kiệm Nguyệt Nga, qua lời lẽ ta thấy
một nhân vật Bùi Kiệm tuy gợi nét hài hước, đáng châm biếm nhưng phần nào cũng
đáng thương hại, có khác so với tinh thần nguyên bản mà Nguyễn Đình Chiểu miêu
tả là kẻ bất tài, đáng khinh ghét:
Kiệm từ khi thi rớt trở
về
Bùi Ông mắng nhiếc, nhún
trề
… Kiệm thưa: tài bất
thắng trời
Lời ca vừa hài vừa bi,
nhờ làn nhạc buồn bã đưa hơi. “Tài bất thắng trời!” phải chăng đó là niềm an ủi
của những người trước kia theo phong trào Duy Tân nhưng chịu thất bại trước
thực dân.
Nhạc tài tử đã thể hiện
được nhiều sắc thái tình cảm từ niềm vui trong lao động, tình yêu, hạnh phúc
đến nỗi đau khổ khi ly biệt, nhớ nhung, tang tóc hay bị áp bức, bóc lột, đầy ải
… qua đó có thể gởi gắm được tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nên được đông
đảo nhân dân ưa thích và phổ biến rộng rãi, chỉ trong ít năm đã lan ra khắp xứ.
B – VỀ CẤU TRÚC ÂM NHẠC
:
Bên cạnh tính trữ tình
phong phú, đa dạng, nhạc tài tử còn mang tính tự sự, tức là nhạc kể chuyện. Cấu
trúc nhạc tài tử mang tính đối đáp trong bài, như nhân vật này ca mấy câu, nhân
vật khác (bất kỳ nam, nữ hay già trẻ) có thể chen vào, khả năng đối đáp cho
phép. Đặc biệt các bài bắc, nam, oán cơ bản của nhạc tài tử , cấu trúc theo quy
tắc đơn tế bào, tế bào này nối theo tế bào khác, như con đỉa đem cắt đôi nó vẫn
sống. Thí dụ bài Tây Thi có thể chỉ ca 6 câu không cần ca hết bài. Vọng cổ có
thể cắt ra 12 câu, 6 câu hay 3, 4 câu để sử dụng cho nhiệm vụ của từng lớp, vừa
đủ thể hiện nội dung của lớp đó, không cần gò bó ca đủ 20 câu.
Nhạc tài tử còn mang
tính bạn tấu. Người nhạc công dựa vào “lòng bản” sáng tạo thêm dựa trên năng
khiếu sẵn có của mình, mỗi người đều tìm cho mình một cách biểu diễn độc đáo,
đó là cách gây nên những bè đối lập để tạo ra tính riêng biệt của từng loại
nhạc cụ trong khi hòa tấu.
Sự sáng tạo này không
vượt ra ngoài “lòng bản”, làm cho nó vừa mang tính thống nhứt và đồng thời lại
có vẻ khác biệt.
Không những bạn tấu nhạc
với nhạc mà có lời vẫn mang tính bạn tấu nhạc với lời. Như ô-pê-ra
thì nhạc viết trước, lời đặt sau mà lời phải bám sát từng nốt nhạc, nhưng lời
ca của nhạc tài tử có thể dài hoặc ngắn hơn chữ đờn còn ngoài ra có thể tự do.
Điều đó có thể khiến cho lời ca của nhạc tài tử không phải quá gò bó, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc kể chuyện, đối đáp hay bộc lộ tâm trạng của nhân vật
trong kịch bản.
C – VỀ KẾ THỪA VÀ SÁNG
TẠO :
Nhạc tài tử đã kế thừa
những tinh hoa của truyền thống ca nhạc dân tộc và tiếp thu có chọn lọc những
cái hay từ bên ngoài đưa lại rồi sáng tạo và phát triển thêm. Trước hết là việc
sử dụng, phục hồi và nâng cao các bản dân ca Nam Bộ như : Lý con sáo, Lý chuồn
chuồn, Lý giao duyên, Lý vọng phu … Những bài dân ca Huế
khi lan truyền vào Nam Bộ cũng được cải biên cho phù hợp
với tính chất của miền đất này. Như bài Lý ngựa ô Huế khi vào đến Nam Bộ đã đẻ
ra hai bài Lý ngựa ô Bắc và Lý ngựa ô Nam. Bài Tứ đại cảnh khi vượt qua
đèo Hải Vân đã biến thành bài Tứ đại oán. Nhạc miền Trung khi phát triển vào
Nam Bộ thì bị mất một phần đặc điểm chủ yếu và bị lệ thuộc vào tiết tấu sinh
hoạt và ngôn ngữ của người Nam Bộ. Trong 10 bài ngự của Huế gồm Phẩm tuyết,
Nguyên tiêu, Hồ quảng, Liên hườn, Bình bán (Bình nguyên), Tây mai, Kim tiền,
Xuân phong, Long hổ, Tẩu mã, thì những bài Kim tiền, Xuân phong, Long hổ, Tẩu
mã được phổ biến nhiều nhất. Tuy vậy những bài này cũng đã được cải biên từ
“lòng bản” đến cách diễn tấu có khác với nhạc Huế. Ngoài ra những bản khác nằm
trong loại “bản nhạc” như Lưu thủy, Cổ bản, Phú lục thì được phát triển thành
những bản nhạc dài.
Ngoài các dạng thang âm:
điệu thức Bắc, Nam Ai và Nam Xuân, nhạc tài tử còn sử dụng và khai thác một
dạng khác nữa, đó là điệu thức Oán. Điệu Oán là hệ quả của mối giao lưu văn hóa
giữa nhạc Việt và nhạc Chàm, trong tiến trình lịch sử lâu dài, trở thành sắc
thái điệu thức đặc thù của nhạc tài tử và cải lương sau này.
Sau cùng là những bài
sáng tác mới trên cơ sở âm điệu dân tộc, như những bài Giang Nam, Phụng hoàng,
Phụng Cầu, Bình sa lạc nhạn, Văn Thiên Tường … Hình thức cấu trúc của loại này,
khác với cấu trúc chân phương của nhạc lễ, chịu ảnh hưởng hình thức liên hoàn, mỗi
đoạn gồm một số câu nhất định. Hình thức cấu tạo của những bản Oán đã đạt đến
một trình độ hoàn chỉnh, những cơ cấu về khúc thức, thể hiện một tình cảm chân
thật, giai điệu được nhiều màu sắc mới mẻ và đi sâu vào chất trữ tình.
Chính vì đi đúng phương
châm kế thừa và sáng tạo nên nhạc tài tử mang tính dân tộc rõ rệt.
Trên đây chúng ta đã
điểm qua một số đặc điểm của nhạc tài tử như nó mang tính hiện thực, tính trữ
tình và riêng về mặt cấu trúc âm nhạc như tính tự sự, tính đối đáp, tính bạn
tấu … đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhạc tài tử phát triển thành lối ca ra bộ.
Nhưng nếu chỉ có yếu tố cơ bản là âm nhạc thì cũng chưa đủ nhân tố để hình
thành một kịch chủng. Trên con đường đi tới nó đã kế thừa và tiếp thu những cái
hay trong các bộ môn văn học nghệ thuật khác để xây dựng nên một bộ môn nghệ
thuật tổng hợp là sân khấu cải lương.
1/ Nó đã kế thừa hát bội
về mặt xây dựng tuồng tích, động tác ngoại bộ và cách điệu để biểu diễn bao gồm
múa, trình thức, võ thuật, cách hóa trang và phục trang.
Cải lương là một hình
thức ca kịch dân tộc nên ít nhiều mang tính chất ước lệ. Ca ra bộ là buổi sơ
khai của sân khấu cải lương, xuất phát từ ca ra bộ mà các động tác múa cơ bản,
trình thức ra đời. Lúc đầu do đáp ứng nhu cầu của người xem, người diễn viên đã
biết tìm tòi sáng tạo thêm các động tác ngoại bộ để minh họa cho lời ca thêm
phong phú. Về sau các động tác ngoại bộ đó đã được các nghệ sĩ đúc kết và nâng
cao trên cở sở kế thừa tinh hoa của nghệ thuật hát bội. Khi hình thành sân khấu
cải lương, những vở tuồng đầu tiên cũng chịu ảnh hưởng của hát bội về mặt cấu
trúc kịch bản. Tính ước lệ trong cải lương phụ thuộc vào ngôn ngữ kịch bản,
tiết tấu âm nhạc và múa – qua các động tác cách điệu với phương pháp vô hiện
vật; bằng sự tưởng tượng và những động tác cách điệu bằng dáng người, điệu đi
kiểu đứng có kết hợp với diễn xuất để nhấn mạnh đặc điểm của bộ môn. Võ thuật
cũng được các nghệ sĩ nâng cao và đưa lên sân khấu trong những đoạn đánh nhau.
Tính ước lệ còn được thể hiện trong cách hóa trang và phục trang, có kế thừa
của hát bội nhưng được tiết chế bớt cách điệu để gần gũi với cuộc sống hơn.
2/ Nó có tiếp thu lối
đọc thơ, đọc kịch có minh họa (récital) trong nhà trường và những vở kịch của
các đoàn kịch Pháp sang diễn ở nhà hát Tây Sài Gòn hồi bấy giờ về mặt xây dựng
kịch bản, diễn xuất và trang trí sân khấu.
Hồi đầu thế kỷ XX theo
truyền thống của các trường trung học, nhất là trường Sat-sơ-lu Lô-ba và trường
đạo Thiên chúa (trường Ta-be ở Sài Gòn), mỗi kỳ bãi trường đều tổ chức một buổi
lễ long trọng để phát thưởng, mời quan khách, phụ huynh học sinh tham dự. Để
giải trí, học sinh hợp xướng, đơn ca hoặc múa những điệu múa dân gian của Pháp.
Đáng chú ý có những bài thơ trữ tình, hoặc những bài ngụ ngôn của La Phông-ten
được học sinh đọc lại, diễn xuất với điệu bộ tả chân, với giọng trầm bổng khi
phẫn nộ, khi vui tươi hoặc bi ai (như bài ngụ ngôn con chó sói với con cừu),
thêm phần kịch cổ điển hay hài kịch, một màn hay đôi ba cảnh ngắn rút trong
kịch cổ điển (Coóc-nây, Mô-li-e …) mà học sinh được giáo sư bình giảng. Kịch có
màn, có cảnh, người vào, người ra chặt chẽ từng lời, từng động tác, nặng về tả
chân không theo ước lệ như hát bội của ta, dứt thì màn hạ, mở màn có gõ ba
tiếng báo hiệu.
Về sân khấu, từ lâu
người Pháp đã say sưa thưởng thức những tuồng ca nhạc ở nhà hát Tây Sài Gòn.
Hàng năm, đoàn hát từ Pháp sang vào tháng Mười, diễn trong vòng sáu tháng vào
mùa nắng. Mỗi tuần diễn hai tuồng mới vào ngày thứ ba và thứ bảy, đến thứ năm
và chủ nhật diễn lại lần nhì theo yêu cầu của khán giả.Trong các vở tuồng phần
lớn là ca nhạc kịch (Opérette), diễn viên đối đáp bằng lời, xen lời ca, lắm khi
dùng bài ca để đối thoại. Ngoài người Pháp, những công chức người Việt biết
tiếng Pháp có thể đến tham dự những buổi diễn, xem cách trình diễn với màn,
cảnh; có thời gian tạm ngưng diễn xuất để khán giả có thể giải lao, lại còn
những tấm phông, đề-co (sơn thủy), pa-nô; không có trống chầu đưa hơi, không có
dàn nhạc ngồi lộ liễu, không có điệu bộ ước lệ như hát bội.
Riêng về trang trí, sân
khấu hát bội trước đây chỉ có thợ mã, chứ không có thợ vẽ. Người ta thường
trang trí sân khấu một cách ước lệ bằng đồ mã, vải màu … rất có thể dùng những
tấm phông ở nhà hát Tây Sài Gòn đã gợi ý cho người ta vẽ những tấm phông cảnh
sơn thủy, triều đình, tư thất … khi diễn đến cảnh nào thì thả tấm phông cảnh đó
xuống, hết cảnh lại kéo lên, sau đó người ta học cách sử dụng cánh gà, những
cảnh triều đình thì thả cánh gà vẽ cột rồng xuống, cảnh rừng thì thả cánh gà
sơn thủy xuống. Cuối cùng người ta mới dùng pa-nô để trang trí sân khấu.
Ở Sài Gòn, trường Vẽ Gia
Định thành lập năm 1913, phổ biến phương pháp “họa hình”, “chấm sơn thủy theo
Tây phương”, hiện thực hơn: ni tấc của con người, cây cối … khá cân đối, cách
cho bóng để nổi hình lên, luật viễn cận được áp dụng. Vẽ than, vẽ trên bố … điều
đó cũng góp phần thúc đẩy bộ môn trang trí sân khấu phát triển.
3/ Cuối cùng phải nói
đến vai trò quyết định của văn học. Sự tổng hợp hữu cơ giữa lời và nhạc, cung
cấp hình tượng cụ thể, đẻ ra nhu cầu và khả năng động tác. Nếu không có yếu tố
văn học hay có văn học thiếu hành động, dĩ nhiên là không có hình thức ca ra bộ
được. Thí dụ như lời ca của hai lớp Tứ đại oán Bùi Kiệm Nguyệt Nga, lời ca gốc
của phong trào ca ra bộ mở đầu bằng hai câu:
Từ khi Kiệm thi rớt trở
về
Bùi Ông mắng nhiếc nhún
trề.
Hành động mắng nhiếc
nhún trề đã tạo điều kiện cho ca ra bộ. Mặt khác, hình thức kể chuyện của bài
hát tạo điều kiện cho người hát diễn tả tình cảm một cách dễ dàng, không bị gò
ép vào một hình thức chặt chẽ nào, cũng như không mang đến dấu hiệu cố định của
một thời đại nào, mà có tính cơ động luôn luôn biến đổi theo quy luật phát
triển của xã hội. Màu sắc âm thanh của ngôn ngữ được nâng lên đến một chừng mực
nào của chất ca xướng, hoặc giảm xuống ở mức độ kể lể bình thường, phù hợp với
tâm tư nhân vật mà người diễn viên muốn diễn đạt. Tóm lại, bản thân bài bản
nhạc tài tử (cấu tạo âm hưởng) có chứa đựng yếu tố sân khấu, đó là chất trữ
tình, có tính đối xứng phù
hợp với tâm trạng con người trong
cuộc sống, bên cạnh đó là tính tự sự kết hợp với động tác thể hiện hành động.
Trong quá trình nghiên cứu chúng ta thấy rằng những động tác và hành động đơn
giản này sẽ trở thành những hành động sân khấu sau này.
TÓM LẠI:
Từ nhạc cổ và nhạc lễ
chuyển thành nhạc tài tử, từ nhạc tài tử tiến lên hình thức ca ra bộ – từ ca ra
bộ chuyển thành một loại hình nghệ thuật sân khấu, có kịch bản văn học, diễn
viên, nhạc công, thiết kế mỹ thuật, quá trình hình thành sân khấu cải lương là
một quá trình kế thừa và phát triển truyền thống âm nhạc dân tộc. Về âm nhạc và
diễn xuất, từ hình thức trình diễn ca nhạc tài tử có đối xướng, làm theo động
tác đơn giản chủ yếu là minh họa lời ca, dần dần tiến đến hình thức thể hiện
tính cách nhân vật. Về văn học, từ những bài ca lẻ phát triển thành kịch bản
hoàn chỉnh với nguyên liệu đầu tiên là hai áng thơ nổi tiếng của dân tộc:
Truyện Kiều và Lục Vân Tiên.
Về thiết kế mỹ thuật,
tiếp thu kỹ thuật vẽ sơn trên bố với phương pháp hội họa của phương Tây, cũng
như cách trang trí sân khấu của các đoàn kịch Pháp. Có thể ví cải lương như một
đứa trẻ vừa lọt lòng đã ăn đủ chất, chất bổ cũng có và chất độc cũng có, nhưng
nhờ có dạ dày tiêu hóa tốt nên lớn rất nhanh.
Hiện tượng bên ngoài là
ca tài tử chuyển sang ca ra bộ rồi hình thành sân khấu cải lương, có người cho
là do chuộng cái mới, có người cho là do cạnh tranh, nhưng nhìn sâu ta thấy đây
là một giai đoạn quá độ có tính quy luật của sự phát triển hình thức trình diễn
ca nhạc dân gian, từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, có quá trình, có
nhiều thử thách để tiến đến hình thức quy mô hơn nữa.
Từ Anh, Năm Châu, Tư Út, Phùng Há, Ba Liên trong tuồng Khúc Oan Vô Lượng, gánh Trần Đắc (Cần Thơ) diễn trên sân khấu khoảng năm 1931
hình: vikipedia
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét