Chợ thiệp Sài Gòn
Hồi những năm 70, 80 của thế kỷ trước, Sài Gòn từng có một
“chợ” bán thiệp quanh năm nhưng từ khoảng đầu tháng 11 trở nên tấp nập, rộn
ràng và tươi vui muôn vàn màu sắc.
Đấy là thời gian Sài Gòn bắt đầu có những ngọn gió se se mát
lạnh vào chiều tối, hơi sương lảng bảng quanh những ngọn đèn đường. Những đường
phố khu trung tâm hình ảnh Ông già Noel đã xuất hiện sớm trên cửa kính quán xá
nhắc nhở người qua đường mùa Giáng sinh đang đến, năm Dương lịch sắp hết. Một
thành phố phóng khoáng và mang nhiều nét Tây phương như Sài Gòn thì mùa lễ hội
cuối năm thường kéo dài từ Noel đến Tết âm lịch. Từ lúc này Chợ Thiệp ở trước
Bưu điện trung tâm bắt đầu vào mùa cao điểm bán Thiệp Xuân.
Ngày thường nơi đây có những sạp bán bao thơ, bưu ảnh, giấy
viết thư… Thời ấy người ta còn viết thư tay, bỏ bao thơ dán tem và gửi bưu điện.
Tại đây bán các loại bao thơ đủ màu trắng xanh hồng tím hoa văn in nổi in chìm
đậm nhạt đủ kiểu. Mỗi xấp là chục 12 chiếc cùng một màu hoặc nhiều màu, đơn giản
nhất là bao thơ viền sọc xanh đỏ in chữ “par avion”. Bao thơ làm bằng loại giấy
mịn màng, dày vừa đủ kín đáo nhưng cũng mỏng vừa đủ là “cánh thư”. Còn giấy viết
thư là từng xấp mỏng, có kẻ hoặc không, góc tờ giấy cũng in màu nhạt và hoa văn
chìm… Thời mới hòa bình những dòng chữ trên những tờ giấy đẹp như thế đã nối liền
biết bao gia đình trong Nam ngoài Bắc. Rồi thiệp sinh nhật, thiệp chúc tốt
lành… loại nào khi mua cũng được người bán cho vào chiếc bao nilon trong suốt
và kèm theo bao thơ trắng tinh, làm người mua không thể chỉ mua một chiếc.
Vào mùa thiệp Tết sạp bán thiệp nở rộ trên vỉa hè và khoảng
trống xung quanh Nhà Thờ Đức Bà. Mỗi sạp đơn giản là một chiếc bàn, hai bên
đóng cái khung gỗ treo những chiếc khánh màu đỏ rực rỡ màu vàng lấp lánh xen lẫn
những mẫu thiệp mừng Giáng Sinh và mừng năm mới của ta lẫn tây: Giáng sinh An
lành, Merry Christmas, Cung chúc tân xuân, Chúc mừng năm mới, Happy New Year,
Bonne Année… Vài năm sau tháng tư 75 còn có cả С Новым годом theo trào lưu học
tiếng Nga… Thiệp Tây thì có ông già Noel và xe tuần lộc, ngôi nhà ấm áp ngọn
đèn trong đên mưa tuyết, cây thông xanh lấp lánh trang kim… Thiệp Tết truyền thống
có hình hoa đào hoa mai, cây nêu bánh chưng tràng pháo… dần dần có thêm nhiều
thiệp vẽ bụi tre nhà lá dòng kinh cầu dừa thiếu nữ khăn rằn áo dài tóc bay theo
gió… Là để gửi cho những người đã ra đi một chút hình ảnh quê nhà.
Chợ Thiệp bán từ sáng đến tối khi bưu điện đóng cửa vẫn còn
vài sạp sáng đèn. Người mua từ già trẻ lớn bé giàu nghèo, từ người Sài Gòn đến
du khách… mọi người đều chọn được những tấm thiệp đẹp ưng ý lại vừa túi tiền.
Những tấm thiệp không chỉ có lời chúc xã giao lịch sự mà còn gửi gắm bao nỗi niềm
thương nhớ…
Sài Gòn có nhiều nơi bán thiệp nhất là gần các nhà thờ, bắt
đầu “mùa thiệp” là cho mùa Giáng sinh. Trong các Bưu điện hay nhà sách, các sạp
báo và đồ lưu niệm ở đường Nguyễn Huệ cũng bán bưu ảnh thiệp tết… nhưng không
đâu đông đúc và nhiều mẫu thiệp đẹp như chợ thiệp ở Bưu điện trung tâm. Đó cũng là một nơi mà người Sài Gòn chí ít
cũng vài lần lui tới trong năm, như đi chợ Bến Thành, đến Thương xá Tax, dạo
chơi bến Bạch Đằng… Nó cũng là nơi nhiều du khách nhớ đến bởi sự phong phú của
văn hóa Việt tập trung ở đây qua những tấm thiệp muôn màu muôn vẻ.
Từ khoảng cuối những năm 1980 chợ Thiệp vắng dần, vì chất lượng
giấy làm bao thơ, làm thiệp ngày càng kém, mẫu mã đơn điệu, chất lượng in lại xấu.
Dù vẫn còn nhu cầu về thiệp trong các dịp lễ tết vẫn còn nhưng người ta không
còn thói quen dạo chơi và mua thiệp cũng vì chợ đã bị dẹp vì “lấn chiếm lòng lề
đường”. Khoảng mươi năm trước Chợ thiệp lại được nhóm họp ở đây với phong trào
thiệp hand make: những chiếc thiệp
hình vẽ ngộ nghĩnh, trang trí không đụng hàng, trẻ trung, hiện đại… Nhưng cũng
chỉ sôi nổi được một thời gian vì internet đã phổ biến.
Bây giờ người ta viết thư gửi thiệp đều qua mạng, chẳng mấy
ai còn nhớ đến những cánh thiệp Xuân được bày bán bên hông Bưu điện Sài Gòn thủa
trước…
Xích lô Sài Gòn
Xích lô không chỉ là một phương tiện giao thông đặc
trưng của đô thị Sài Gòn mà còn là một nét đẹp của văn hoá giao thông ở đây, bởi
những lý do sau.
Xích lô Sài Gòn đẹp: năm 1975 từ Hà Nội về nhìn thấy
những chiếc xích lô đậu sát vỉa hè những con đường Sài Gòn, tôi đã ngạc nhiên
vô cùng: So với phần lớn những chiếc xích lô cũ kỹ thấp lè tè, sàn và ghế chỉ bằng
gỗ, miếng nệm nếu có cũng dúm dó cũ mèm ở Hà Nội thì xích lô Sài Gòn thiết kế
cao, gọn, nệm mui luôn có sẵn, có khi làm bằng vải hoa vui mắt, nhẹ nhõm, phù hợp
với thời tiết nắng gió của Sài Gòn. Xe được lau chùi bóng loáng, tra dầu mỡ thường
xuyên nên đạp nhẹ mà chạy nhanh, không có tiếng kêu cót két nặng nhọc làm người
ta ngần ngại khi ngồi trên xe mà họ có thể thoải mái ngắm nhìn phố phường.
Xích lô Sài Gòn là một loại dịch vụ đô thị: Do cấu tạo
xe, ghế của người đạp xe khá cao nên người đạp có tư thế đàng hoàng hơn, không
phải cúi thấp gò lưng nặng nhọc đạp xe, khách và chủ xe có thể nói chuyện thoải
mái với nhau suốt cả cuốc xích lô. Phần lớn những người đạp xích lô Sài Gòn ăn
nói nhã nhặn, mời chào khách nhưng không chèo kéo hay doạ nạt, khách đi thì cám
ơn mà khách không đi cũng… cám ơn luôn. Vui vẻ, sòng phẳng, xích lô Sài Gòn cho
thấy sự bình đẳng trong việc cung cấp và sử dụng dịch vụ - một đặc trưng của
văn hoá đô thị.
Xích
lô Sài Gòn cho biết về người Sài Gòn: dù người đạp xích lô là người nhập cư hay
người Sài Gòn thì ứng xử và lối sống của họ cũng khá giống nhau: có thể thấy những
bác xích lô khi rảnh rỗi chưa có khách thì mở tờ báo ra đọc, hoặc có người ngồi
trên xe lịch sự kéo mũ che mặt ngủ một chút. Họ tự trọng và không mặc cảm vì
“thân phận” đạp xích lô. Phần lớn khách đi xe cũng không có thái độ coi thường
người đạp xích lô mà tôn trọng, vui vẻ, khi xuống xe cám ơn đàng hoàng. Nhiều
người chuyên đạp xe ban đêm vì ban ngày họ mần công chuyện khác, vì vậy người đạp
xe ban ngày nếu đến chiều đã kiếm đủ tiền cho vợ đi chợ ngày mai thì thường nghỉ,
nhường cho đồng nghiệp làm đêm, có khi cho mượn cả xe vì có người không đủ tiền
mua xe riêng
Do
yêu cầu về giao thông, nhất là ở khu vực trung tâm thành phố nên từ nhiều năm
nay, xích lô Sài Gòn hầu như không còn tồn tại, những nét văn hoá đẹp như trên
cũng dần biến mất. Lưu giữ những chiếc xích lô phục vụ du khách cũng là phục hồi
một nét đẹp của đô thị Sài Gòn.
Đêm nhớ về Sài Gòn
Vào
khoảng thời gian này, khi khắp nơi nhộn nhịp mừng Giáng sinh và đón năm mới với
bản nhạc Happy New Year thì trong tôi lại vang lên giai điệu một bài hát tình cờ
được nghe trong một phòng trà trên đường Đồng Khởi, cũng vào một đêm cuối năm…
Lúc
ấy, sau một thời gian thành phố sôi lên vì sự đổi thay bất ngờ, cuối năm tiết
trời bỗng se lạnh sau hàng chục năm Nam bộ chưa biết mùa đông, một số sinh hoạt
văn hóa của Sài Gòn đã “âm thầm” trở lại: nhà hàng, phòng trà có ca nhạc, ca sĩ
hát những bài ca “giải phóng” nhưng thỉnh thoảng, bất ngờ một bài “nhạc cũ”
vang lên: Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Trầm Từ Thiêng, Trường
Sa… Tôi, cô gái Hà Nội khi ấy tuổi vừa đôi mươi, từ giai điệu lời ca da diết “để đêm đêm nhớ về Sài Gòn thấy mình vừa trở lại quê hương, đã gặp
người một trời yêu thương…” biết mình đã thuộc về Sài Gòn như thể được
sinh ra ở đây.
Không
như Hà Nội hay Huế có cả một dòng nhạc để gọi tên hay nhớ về, những tình khúc
sáng tác trước 1975 ở miền Nam hầu như ít bài có hai chữ Sài Gòn trên tựa hay
trong lời ca, nhưng ai cũng có thể nhận ra hình ảnh Sài Gòn thấp thoáng trong
ca từ và giai điệu… Cái chất sang cả mà gần gũi, cởi mở mà thâm trầm của Sài
Gòn thấm vào trong từng nốt nhạc, để khi người ca sĩ cất lên tiếng hát thì dù
quê đâu người nghe cũng thấy mình thuộc về Sài Gòn. Cho đến bây giờ, theo tôi
có hai ca khúc lột tả được đúng nhất cái “chất Sài Gòn”, đó là “Sài Gòn đẹp lắm”
của Y Vân và “Đêm nhớ về Sài Gòn” của Trầm Tử Thiêng. Nếu trong “Sài Gòn đẹp lắm”
đây là một thành phố đông vui, trẻ trung, sôi động, rộn ràng của những người tứ
xứ tụ về thì “Đêm nhớ về Sài Gòn” lại như lời tự sự của một đô thành từng trải
qua bao biến động, có nỗi buồn chia ly và những thân phận ẩn trong đêm tối…
Sài
Gòn không có ban đêm, một cuộc sống khác bắt đầu ở đây khi mặt trời đi ngủ, phổ
biến nhất là sinh hoạt nghệ thuật ở phòng trà, quán cà phê, tụ điểm ca nhạc,
sân khấu, rạp phim ở trung tâm đến quán nhậu ven kênh hay nơi hẻm nhỏ. Khi
thành phố lên đèn ánh sáng rực rỡ thì cũng là lúc nhiều người bước vào cuộc mưu
sinh, nghệ sĩ trên sân khấu hay ca sĩ “kẹo kéo” nơi vỉa hè đều mang lại cho đêm
thành phố đầy ắp cung bậc cảm xúc. Và không đâu như trong dòng nhạc Sài Gòn xưa
hình ảnh người ca sĩ mong manh sương khói khuất vào đêm khuya lại được nhiều nhạc
sĩ đưa vào ca khúc của mình, như chia sẻ, trân trọng và có gì đó như xót
thương…
Sau
một ngày hối hả vội vàng mưu sinh, đêm xuống bên những cuộc bia rượu ồn ào vẫn
có giây phút cô đơn, lắng lòng nghe tiếng hát mà nhớ một Sài Gòn đâu đó, ngay
ngoài khung cửa kia hay cách xa ngàn dặm, có thể chạm vào hay chỉ nhìn thấy
trong tưởng tượng… Với rất nhiều người Sài Gòn không chỉ là quê hương, là người
thương trong trái tim lỗi nhịp khi nhớ về, Sài Gòn còn là một phần của cuộc đời
ngắn ngủi. Bởi vậy người đi xa nhớ về Sài Gòn đã đành mà người ở Sài Gòn cũng
không ngừng nhớ nhung thành phố. Nhớ ánh đèn vàng, nhớ quán xưa, nhớ con đường
hoa dầu bay bay, nhớ cơn mưa chợt đến chợt đi, nhớ Sài Gòn như nhớ mẹ nhớ người
tình nhớ bạn tâm giao…
Tưởng
chỉ có những người từng trải đã vào tuổi 60 mới có những hoài niệm về một Sài
Gòn coi lạnh lùng mà nồng nàn, ngỡ hờ hững cách xa mà thân quen ấm áp. Đâu dè lại
bắt gặp niềm thương nỗi nhớ như thế đầy ắp qua từng lời ca nốt nhạc bolero mà
người Sài Gòn, có rất nhiều người trẻ, bây giờ vẫn thường hát.
Đêm
nhớ về Sài Gòn để cùng thức và cùng hát, có những con người đã nuôi dưỡng sức sống
của Sài Gòn bằng một tình yêu như thế!
Hình: internet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét