Kỳ 2. Những nguyên nhân hình thành nghệ thuật sân khấu cải lương
Nghệ thuật sân khấu cải lương là một hiện tượng văn hóa, sự hình
thành và phát triển của nó có những nguyên nhân khách quan và chủ quan nhất
định. Chúng ta hãy lần lượt tìm hiểu những nguyên nhân đó để thấy bối cảnh xã
hội và thời đại đã tác động đến con người nghệ sĩ như thế nào để có thể khai
sinh ra một kịch chủng mới.
I. KHÁCH QUAN
1.1 NGUYÊN NHÂN XÃ HỘI
Muốn hiểu tại sao sân khấu cải lương lại hình thành ở Nam Bộ vào
khoảng sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918), phải tìm nguyên nhân
ở tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội ở Nam Bộ thời bấy giờ, để thấy
sân khấu cải lương ra đời là một tất yếu lịch sử, bắt nguồn từ những điều kiện
xã hội và thời đại nhất định.
a) Về mặt kinh tế:
Từ trước Đại chiến thứ nhất, tầng lớp tư sản Việt Nam đã
ra đời và phát triển. Họ là chủ những công trường thủ công dệt the nhiễu, làm
bát đĩa, làm gạch, xẻ gỗ, làm đường; chủ những xí nghiệp có tính chất cơ khí
như nhà máy xay gạo, nhà máy in, xưởng sửa chữa xe hơi và chủ những công ty
buôn bán lớn có tính chất tư bản chủ nghĩa.
Tuy vậy tầng lớp tư bản dân tộc mới xuất hiện này chưa đủ hình
thành một giai cấp. Cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhất nổ ra, thực dân Pháp
vì bận chiến tranh ở nước Pháp phải ngừng cuộc khai thác ở Đông Dương. Do đó,
một số đông nhà tư sản Việt Nam nhân dịp bỏ vốn kinh doanh, mở xí
nghiệp. Một số nhà tư bản thương mại cũng có nhiều chi nhánh ở trong nước và
xuất cảng ra nước ngoài.
Ngoài lực lượng tư sản dân tộc Việt Nam phải kể đến lực
lượng tư sản mại bản Việt Nam. Có những nhà buôn lớn chuyên buôn bán hoặc
làm đại lý độc quyền cho các hãng tư bản ngoại quốc.
Có những nhà
tư sản Việt Nam đã chung vốn với tư bản ngoại
quốc thành lập những công ty buôn bán hay những xí nghiệp. Có những công ty lớn
chuyên thầu những công việc chính cho tư bản Pháp hay chính phủ thực dân …
Khi giai cấp tư sản Việt Nam đang trên đà phát triển thì
cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhất chấm dứt. Tư bản Pháp ở Đông Dương, sau
một thời kỳ bị đình trệ vì mắc chiến tranh ở bên nước Pháp đã hoạt động trở
lại. Cuộc khai thác lần thứ hai bắt đầu, tư bản Pháp bỏ vốn kinh doanh ngày
càng nhiều. Trước kia chúng chú ý vào việc tiêu thụ hàng hóa, đem hàng hóa ở
bên Pháp sang độc chiếm thị trường Đông Dương, thì nay, ngoài việc bán hàng
hóa, chúng đã đẩy mạnh việc xuất cảng tư bản với giá nhân công rẻ mạt ở Đông
Dương để kiếm cho được nhiều lời.
Do sự tăng cường khai thác của thực dân Pháp, quyền lợi kinh doanh
của tư sản Việt Nam bị hạn chế lại. Nếu giai cấp tư sản
Việt Nam thời ấy được tự do phát triển thì trên con đường tiến tới
của nó tất nhiên theo lối đi của giai cấp tư sản ở các nước tư bản. Nhưng giai
cấp tư sản Việt Nam lại sản sinh ra từ một nước thuộc địa, dưới
sự thống trị của thực dân Pháp nên đã gây nên một mâu thuẫn sâu sắc
giữa sức phát triển của tư sản Việt Nam với quan hệ của thực dân Pháp. Mặt
khác, do sự sản xuất theo phương pháp tư bản chủ nghĩa phát triển đã tạo nên
cảnh phồn vinh giả tạo.
Về mặt nông nghiệp với kế hoạch đào kinh xáng để phát triển giao
thông vận tải và cho trưng khẩn đất hoang bên kia sông Hậu, do viên toàn quyền
Dumer khởi xướng. Giai cấp địa chủ ở Nam Bộ đứng ra chiêu mộ tá điền, bóc lột
địa tô và cho vay nặng lãi khiến đời sống nông dân càng thêm cơ cực. Tầng lớp
“điền chủ mới” thành hình. Nhiều người ở phía Hậu Giang nhưng không ít người
xuất thân làm công chức lớn nhỏ phía Tiền Giang và Sài Gòn lãnh phần béo bở.
Giới này làm giàu nhanh, tích lũy được chút ít vốn nhưng trước mắt vẫn thấy ba
trở lực. Một là, thực dân Pháp đang khống chế về thuế vụ, giá cả. Hai là, giới
mại bản Hoa kiều ở Chợ Lớn đưa vốn từ Hương Cảng và Singapo sang, độc quyền về
thu mua tận miền quê, nắm luôn phương tiện chuyên chở (ghe chài, tải) và những
chành (kho) ở khắp các điểm thuận lợi, tận chợ quận lại còn nắm gần như độc
quyền về nhà máy xay xát. Ba là, giới “sét-ty” Ấn kiều chuyên nghề cho vay và
đấu thầu thuế hoa chi các chợ, bến đò. Điền chủ người Việt làm ăn khá giả, nhờ
vay vốn của tư bản Hoa kiều hoặc Ấn kiều, đem về cho tá điền vay lại.
Sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất, ruộng đất càng tập trung
nhiều, trái lại, nông dân càng phá sản nhiều. Ngoài những ruộng đất bị chiếm
đoạt, người nông dân còn phải nộp tô nộp tức cho địa chủ,
phú nông, nộp thuế trực thu và gián thu cho bọn thống trị càng ngày
càng nặng thêm. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ và thực dân
ngày càng thêm sâu sắc.
b) Vè chính trị
Sau khi chiếm được Nam Kỳ, thực dân Pháp lập một chính quyền quân
sự đứng đầu là tên đô đốc, các tên chủ tỉnh, phủ huyện cũng đều là sĩ quan
Pháp. Năm 1880, chúng đặt chức thống đốc, bên cạnh đó chúng đặt ra Hội đồng
quản hạt Nam Kỳ, gồm sáu người Pháp và sáu người Việt do một số cử tri nhỏ cử
ra. Nhưng cái màn thưa che đậy chế độ độc tài lõa lồ ấy không lừa bịp nổi ai.
Cái hội đồng ấy không có quyền gì ngoài quyền đề đạt thuế vụ, ngân sách. Thực
dân gấp rút lập trường thông ngôn, trường dòng … để có người làm tay sai cho
chúng. Đến năm 1887, Pháp lập phủ Toàn quyền cai trị cả ba xứ Nam Trung Bắc,
thì ở Nam Kỳ Hội đồng quản hạt mất bớt quyền hành, nhất là về ngân sách.
Sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất, đề củng cố bộ máy chính quyền
có một quy mô rộng lớn trên một nền kinh tế tư bản ở thuộc địa đương phát triển
và tìm một chỗ dựa cho giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản mới ra đời, thực dân
Pháp chú ý mở rộng các cơ quan dân cử, kéo một số địa chủ, tư sản và trí thức
tham gia chính quyền, đào tạo những tay chân mới từ một lớp người mới thay cho
lớp người cũ. Cả đến bộ mặt các thành thị cũng được trang điểm thêm: công việc
tuyên truyền cho chính sách “khai hóa” cũng phải ráo riết hơn.
Cũng trong thời gian này, các thứ thuế trực thu và gián thu đặt ra
càng nhiều, vừa tinh vi vừa nặng nề hơn trước. Tất cả các thứ thuế mỗi ngày một
chồng chất lên đầu nhân dân Việt Nam, làm cho đời sống của nhân dân ngày
càng cơ cực.
Do bị áp bức bóc lột nặng nề, nhân dân Nam Kỳ đã nhiều lần đứng
dậy chống thực dân Pháp. Nhưng sau khi phong trào Cần Vương thất bại, trong
khoảng thời gian vài chục năm từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX , cách mạng
Việt Nam không được bất kỳ một giai cấp nào lãnh đạo. Trước tình hình “nước sôi
lửa bỏng” ấy, một tầng lớp sĩ phu yêu nước – bộ phận tiến bộ nhất được phân hóa
từ giai cấp phong kiến, có hấp thu ít nhiều “tân học” – đứng ra đảm nhiệm sứ
mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Giữa lúc đang băn khoăn tìm phương hướng cứu nước, thì họ tiếp
nhận được nguồn ảnh hưởng bên ngoài đưa lại: Cuộc vận động Duy Tân ở Trung
Quốc, một trào lưu tư tưởng có tính chất cải lương tư sản do Khang Hữu Vi,
Lương Khải Siêu đề xướng. Đó là sự kiện nước Nhật Bản từ sau cuộc Duy Tân đã
tiến lên theo con đường tư bản chủ nghĩa với tốc độ khá
nhanh: Năm 1904 đánh thắng hạm đội Nga hoàng ở Lữ Thuận … Những “tân thư, tân
văn” từ Trung Quốc, Nhật Bản tới tấp tràn vào Việt Nam. Những học thuyết
mới như tư tưởng triết học tiến hóa luận của Đác-Uyn, với những Xpen-xơ,
Hớt-xlây, những lý luận về xã hội học với những Rút-xô, Mông-tét-xki-ơ, Von-te
… đã lóe lên trong đầu óc những nhà yêu nước Việt Nam đang đi tìm đường cứu
nước, biến thành những gợi ý đầy hấp dẫn để giải đáp các vấn đề lịch sử đang
đặt ra. Họ đã đón nhận những lý luận chính trị, tư tưởng triết học và những
quan điểm đạo đức đó như là một thứ vũ khí mới để ứng dụng trong cuộc chiến đấu
mới của mình. Từ đó họ đã xốc lên được phong trào cứu nước mang màu sắc của
thời đại mới, với cái tên “Cải cách duy tân” (1906 – 1908).
Đầu năm 1905, phong trào Đông Du sang Nhật đầu tiên của Phan Bội
Châu, Tăng Bạt Hổ, kế đó là một số chí sĩ khác trong đó có Cường Để. Năm 1907
Phan Bội Châu soạn ra bài văn “Ai cáo Nam Kỳ phụ lão” để làm tài liệu vận động
đồng bào Nam Kỳ. Phong trào Đông Du phát triển mạnh mẽ ở Nam Kỳ, vào khoảng
1907 – 1908, con số du học sinh cả nước ước chừng 200, riêng Nam Kỳ đã chiếm
hơn 100.
Sau khi tiếp xúc với Phan Bội Châu, ở Hương Cảng, Trần Chánh Chiếu
đại biểu cho tầng lớp tư sản dân tộc mới lên có mâu thuẫn quyền lợi với tư bản
Pháp và lợi ích còn ít nhiều gắn bó với dân tộc, với nhân dân, đã đứng lên cổ
động công khai ở Nam Kỳ một phong trào gọi là Cuộc Minh Tân (Cuộc tức là công
cuộc, Minh Tân tức là minh đức, tân dân). Ông đề ra những công việc phải làm
theo gương Duy Tân của Trung Quốc: Phát triển trường dạy học, phát triển công
nghệ trong nước, mở mang trường quân sự dạy thủy quân, lục quân.
Đầu năm 1908, ông đứng ra thành lập công ty Nam Kỳ Minh Tân Công
Nghệ nêu rõ kế hoạch hoạt động là lập lò chỉ (máy kéo sợi bằng chỉ), lò dệt, lò
xà bông, thuộc da và làm đồ pha-lê. Ngoài công ty lớn trên đây, đáng chú ý là
hai khách sạn hoạt động với mục đích là làm kinh tài cho phong trào,
đồng thời cũng là nơi tụ họp để che mắt bọn cầm quyền thực dân: Minh Tân khách
sạn ở Mỹ Tho, Nam Trung khách sạn ở Sài Gòn. Cũng cần kể đến 15 tổ chức khác đã
hưởng ứng phong trào rải rác ở Sài Gòn và các tỉnh ở Nam Kỳ, từ Biên Hòa đến
Rạch Giá nhằm mua bán lúa gạo, lập quán ăn, lập nhà in hoặc nhằm mục đích cho
vay nhẹ lãi, lập công ty y dược để bào chế thuốc bắc theo hình thức Âu dược.
Lại còn sáng kiến lập công ty tàu thủy đưa đò để yểm trợ phong trào một tờ báo
công khai ra đời lấy tên là Lục Tỉnh Tân Văn.
Tháng 9-1908, xà bông của công ty Minh Tân lại tung ra thị trường,
cạnh tranh rất hiệu quả với xà bông của ngoại quốc.
Đồng thời Lục Tỉnh Tân Văn cũng có nhiều bài
công kích chế độ thuộc địa, kêu gọi đồng bào đoàn kết chống quan lại tham nhũng
khiến thực dân chú ý.
Cuối tháng 10-1908, ông Tổng lý là Trần Chánh Chiếu bị bắt nên
công ty Minh Tân ngừng hoạt động và giải tán, Lục Tỉnh Tân Văn cũng bị rút giấy
phép.
Sau vụ Hà thành đầu độc tháng 6-1908, thực dân Pháp đàn áp trắng
trợn, phong trào Duy Tân bị tan rã. Nhưng Phan Bội Châu, Cường Để vẫn tiếp tục
hoạt động. Năm 1911, cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc giành thắng lợi đã đem
lại phấn khởi cho các nhà cách mạng Việt Nam và cho họ có điều kiện
hoạt động dễ dàng hơn trên đất Trung Quốc. Năm 1912, Việt Nam Quang
Phục Hội được thành lập tại Hương Cảng do Cường Để làm Hội trưởng và Phan Bội
Châu làm Tổng lý. Khi cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhất sắp nổ ra, Cường Để
qua Đức với Đỗ Văn Y và Trương Duy Toản định dựa vào Đức đánh Pháp nhưng cuộc
vận động đó không có kết quả. Đức không chịu giúp đỡ Cường Để mặc dù lúc đó Đức
là kẻ thù chính của Pháp.
Cũng trong thời kỳ Đại chiến thế giới lần thứ nhất, nhiều người
yêu nước Việt Nam cho rằng nhân lúc Pháp đang mắc đánh nhau với Đức ở Châu Âu
mà đứng lên đánh đuổi bọn thực dân thuộc địa đòi lại đất nước. Đêm ngày 23 rạng
24-3-1913, đã có cuộc nổi dậy của Phan Xích Long nhằm đánh chiếm Sài Gòn nhưng
thất bại. Phan Xích Long chạy ra Phan Thiết nhưng bị bắt ở đó. Đêm 14 rạng
15-2-1916 lại nổ ra cuộc đánh khám lớn Sài Gòn với mục đích giải phóng những
chính trị phạm trong đó có Phan Xích Long. Nhưng cuộc nổi dậy này cũng bị dập
tắt vì lực lượng quá ô hợp và non yếu.
Cho tới cuộc nổi dậy của Phan Xích Long, những phong trào yêu nước
do tầng lớp phong kiến tư sản hóa và tầng lớp nông dân lãnh đạo đều lần lượt
thất bại. “Vào mấy chục năm đầu của thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng về đường lối
cách mạng diễn ra sâu sắc nhất … Cuộc khủng hoảng về đường lối thực chất là
cuộc khủng hoảng về vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp tiên tiến trong xã hội
… Trước năm 1920, chưa một người yêu nước nào của nước ta nhìn thấy ánh sáng
giải phóng trong đêm tối nô lệ của dân tộc.” (50 năm hoạt động của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà xuất bản Sự thật, từ trang 22).
Trước tình hình đó, một số người yêu nước từng tham gia các phong
trào Đông Du và Duy Tân, nhưng sau những thất bại liên tiếp về chính trị đã cảm
thấy mệt mỏi, nên chuyển hướng qua hoạt động cải cách về văn hóa xã hội, trong
đó có cả mặt cải cách sân khấu.
c) Về văn hóa xã hội:
Từ năm 1865, trước khi chiếm trọn Nam Kỳ, thực dân Pháp đã cho
xuất bản Gia Định báo bằng chữ quốc ngữ. Tuy ban đầu là một thứ công báo của
chính quyền xâm lược, tờ Gia Định báo cũng góp phần vào việc phổ biến chữ quốc
ngữ ở Nam Kỳ. Năm 1868, xuất hiện Phan Yên báo do Diệp Văn Cương làm chủ bút,
nhưng sau bị đóng cửa vì những bài có tính chất chính trị, công khai chỉ trích
chánh sách của thực dân Pháp. Năm 1901, có tờ Nông Cổ Mín Đàm do Lương Khắc
Minh rồi Nguyễn Chánh Sắt làm chủ bút. Năm 1907 có tờ Lục Tỉnh Tân Văn do Trần
Chánh Chiếu làm chủ bút. Năm 1916, tại Cần Thơ có tờ An Hà nguyệt báo do một
công ty in thành lập, trong ban trị sự có Đỗ Văn Y, từng hoạt động trong phong
trào Duy Tân.
Về tiểu thuyết, năm 1887 xuất hiện cuốn truyện Thầy Lazaro phiền
của Nguyễn Trọng Quản. Khoảng 1910, đã có Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Chánh
Chiếu, Phan Yên ngoại sử Tiết phụ gian truân của Trương Duy Toản. Năm 1912, Hồ
Biểu Chánh viết tiểu thuyết Ai làm được. Khoảng 1919 – 1920, Nguyễn Chánh Sắt
lừng danh với tiểu thuyết Nghĩa hiệp kỳ duyên tức Chăng-Cà-Mum.
Trường Sát-sơ-lu Lô-ba ở Sài Gòn thành lập năm 1885. Cũng từ cuối
thế kỷ XIX, trường trung học Mỹ Tho được thành lập, đã đào tạo số học sinh có
trình độ tương đối cao, trở thành thơ ký lên huyện, phủ, đốc phủ. Tính đến
tháng 12-1917, trường trung học Mỹ Tho là trường duy nhất ở tỉnh. Nhờ địa thế ở
vào trung tâm đồng bằng, trường này thu hút học sinh từ các vùng Gò Công, Sa
Đéc, Vĩnh Long. Trong khi ấy, phía Hậu Giang là đất mới, trường trung học Cần
Thơ chỉ thành lập năm 1926.
Về trường tiểu học (gồm các lớp đồng ấu, dự bị, sơ đẳng), mỗi xã
chỉ có thể xây cất nếu đạt con số 900 người đóng thuế (thuế đinh) để có đủ công
nha (ngân sách) tài trợ về phòng ốc, lương bổng giáo viên. Nếu một xã không đủ
con số 900 nói trên, hai hoặc ba xã mới được mở một trường. Bởi vậy vùng dân cư
đông đúc của Mỹ Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long nhờ dân số đông đúc ở thôn quê nên hầu
hết ở các làng đã có trường học, trong khi phía Rạch Giá, Cà Mau nhiều xã suốt
80 năm thuộc địa, trẻ con chịu dốt.
Ở ba tỉnh đông dân đất tốt, các trường học mở tương đối nhiều tạm
gọi là dân trí cao, thêm truyền thống cũ về học hành với chữ Nho, khá đồng bộ
về lễ nhạc đình làng thành hình trước từ thời Tự Đức. Mỹ Tho là đầu mối đường
xe lửa, xe đò, tàu thủy lên Sài Gòn, là thủ đô thứ nhì của Nam Kỳ thuộc địa. Mỹ
Tho, Vĩnh Long, Sa Đéc nằm trên sông Tiền giao lưu với Campuchia dễ dàng.Những
điều kiện trên đây giải thích tại sao, trong tình hình những năm đầu thế kỷ XX,
ba tỉnh trên là cái nôi của sân khấu cải lương, nhất là Mỹ Tho.
Về xã hội, trong phong trào Duy Tân đã có chủ trương “di phong
dịch tục”, thay đổi phong tục cũ, giảm bớt nghi thức khi có đám tang, chống hút
thuốc phiện, cờ bạc, khuyến khích thể dục thể thao, bỏ mê tín dị đoan và đề
xướng nếp sống mới như tiếp khách thết đãi theo người Âu, cắt tóc ngắn, bàn
việc làm ăn tại nhà hàng …
Trong thời gian Đại chiến thế giới lần thứ nhất, giới địa chủ, tư
sản làm giàu nhanh chóng. Họ thi nhau cất nhà ngói, thậm chí nhà lầu. Nhà ở đã
cải cách, quần áo, giường ngủ theo tân thời, hằng ngày giao thiệp với công sở
với phong cách mới: bộ điền, bằng khoán đất, thuế thân, cách xử kiện ở tòa
dưới, tòa trên. Xe ô tô nhập từ 1906, đến năm 1914 đã phổ biến trong giới điền
chủ lớn, tư sản và công chức, “trên ô tô, dưới thời ca nô”. Đời sống vật chất
đã thay đổi, tất nhiên những nhu cầu về tinh thần cũng thay đổi, đó cũng là một
trong những nguyên nhân dẫn tới sự hình thành một hình thức sân khấu mới phù
hợp với xã hội và thời đại lúc bấy giờ.
Tóm lại, về nguyên nhân
xã hội chúng ta thấy:
1/ Sự xuất hiện một tầng
lớp mới thuộc giai cấp tư sản, tiểu tư sản với yêu cầu giải phóng cá nhân,
chống lễ giáo phong kiến, đã thúc đẩy sự hình thành một hình thức
sân khấu mới, đáp ứng được tư tưởng tình cảm của họ.
2/ Việc cải cách sân
khấu cũng nằm trong chương trình cải cách xã hội của phong trào Duy Tân khi
phong trào này thất bại, một số người yêu nước chuyển hướng qua hoạt động văn
hóa xã hội trong đó có cả việc cải cách sân khấu.
3/ Nông dân là những
người chịu áp bức bóc lột của phong kiến thực dân sẵn có tấm lòng yêu nước và
tinh thần dân tộc. Khi những sĩ phu yêu nước đề xướng ra phong trào cải lương
thì nông dân là người góp phần phổ biến rộng rãi loại hình nghệ thuật này.
1.2 NGUYÊN NHÂN VỀ NHU
CẦU THẨM MỸ :
Bộ môn văn nghệ được
đồng bào mọi giới ở Nam Bộ yêu chuộng nhất từ thời các chúa Nguyễn vẫn là tuồng
hát bội. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức mô tả dài dòng về thú
ham mê hát bội đến mức trở thành hủ tục, lãng phí ở Nam Bộ: Gọi gánh hát đến
rồi người mua dàn mời bạn bè đến xem như khách danh dự để lấy lại số tiền, tổng
cộng lại, quả là lời gấp bội. Mỗi vị quan to như Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thoại
(Thoại Ngọc Hầu) đều sắm đoàn hát bội riêng.
Trong miếu thờ Lê Văn Duyệt ở Bà
Chiểu (Gia Định) dành riêng một vị trí thờ kép Hứa Văn lừng danh, từng được tả
quân ưa thích lúc sinh thời.
Thực dân Pháp đến, hát
bội vẫn tồn tại với những tuồng pho, tuồng Tàu, trong đó xuất sắc nhất vẫn là
tuồng San Hậu. Với tình hình mới, hát bội không đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ
của người xem vì quanh đi quẩn lại chỉ có vua quan không thể hiện được cuộc đời
người dân: tình yêu, lao động … Đặc biệt không thể hiện được nội dung chống
Pháp, chống giai cấp bóc lột. Những năm đầu thế kỷ XX, đã xuất hiện ngày càng
đông đảo những loại người mới, từ bọn thực dân và quan lại công chức tay sai
cho chúng đến những người thuộc giai cấp tư sản, tiểu tư sản … do đó có nhu cầu
hình thành một loại kịch chủng phản ảnh được hiện thực xã hội lúc bấy giờ, đồng
thời thể hiện được tư tưởng, tình cảm của nhân dân, đó là động lực hết sức quan
trọng cho sự ra đời của nghệ thuật cải lương.
Lúc đầu người ta chỉ mới
dám đề xuất việc “cải cách hát bội” chứ chưa dám mạnh dạn xây dựng một kịch
chủng mới. Ngày 28-3-1917, ông Lương Khắc Ninh, chủ bút báo Nông Cổ Mín Đàm
từng thành lập gánh hát bội Châu Luân ban ở Sài Gòn (1905), có diễn thuyết tại
nhà hội khuyến học Sài Gòn về “Hí nghệ cải lương”. Khi ông Diệp Văn Kỳ chất
vấn: “Trong cuộc hát phải có nhạc, mà nhạc An Nam còn phải sửa, vậy ai là ông
nhạc sư mà sửa nhạc?” thì ông Lương Khắc Ninh trả lời: “Nói qua nhạc thì xin
bãi nhạc đi. Đây tôi tính hát tiếng thường, không nam, không khách gì nên không
kể đến nhạc. Hát tuồng diễn mà răn đời thôi” (theo Nông Cổ Mín Đàm số ra ngày
19-4-1917).
Báo Nông Cổ Mín Đàm đăng
những vở tuồng Vì nghĩa quên nhà (19-7-1917), Báo nghĩa (21-8-1917), Ngô Công
Nhược mắc lừa của Nguyễn Khắc Nương và Nguyễn Ngọc Ẩn (24-6-1920) cũng toàn là
văn xuôi không hề có một điệu hát nào cả. Mặc dù báo Nông Cổ Mín Đàm, Công luận
hóa đăng tin diễn vở Vì nghĩa quê nhà , Báo nghĩa (Hồ Biểu Chánh), Gia Long
phục quốc Pháp Việt nhứt gia (của Đặng Thúc Liên và Nguyễn Văn Kiều) … đều gọi
là “Cuộc hát cải lương” nhưng đó là hát bội cải cách chứ không phải cải lương
như chúng ta hiểu hiện nay. Vở Pháp Việt nhất gia, diễn đêm 6-11-1918 tại nhà
hát Tây Sài Gòn, soạn giả viết toàn văn vần, loại biến ngẫu gần như của hát
bội, nhưng lại không có điệu Nam, Khách, Thán, Bạch, Ngâm … gì hết. Đào kép chỉ
nói lối, khi thì theo điệu Ai, khi lại trở Xuân, không múa may gì, cũng không
trống kèn inh ỏi. Trong hậu trường có dàn cổ nhạc nhưng chỉ để hòa tấu bản
Madelen lúc sân khấu mở màn và sự hiện diện của toàn bộ đào kép khi đã hóa
trang xong, đứng xếp hàng chào khán giả, gọi là táp-bơ-lô vi-văng (tableau
vivant), sau đó thì đệm theo từng điệu lối của đào kép. Khi đó, nhà báo Lê
Hoàng Hưu, trên báo chí Sài Gòn ca ngợi lối hát này và gọi nó là hát bộ, tức là
một sự cải tiến của hát bội.
Dẫu sao những cố gắng
“cải cách của hát bội” nói trên cũng tạo tiền đề cho việc xây dựng một kịch
chủng mới là sân khấu cải lương.
Báo Nông Cổ Mín Đàm số
ra ngày 11-10-1917 có đăng bài Phương châm đắc sở của Lương Gia Tẩu (Chợ Lớn)
trong có đoạn viết: “Tôi có tánh ham vui nên mỗi tuần tối thứ bảy thì tôi hay
đi coi hát bội. Có đêm tôi gặp được kép hay tuồng giỏi, múa trúng điệu, hát
phải hơi thì khoái lạc vô cùng; còn có bữa gặp hề vô duyên đào mới tập thì mỏi
lòng không muốn ngó. Tôi thầm tưởng trên địa cầu này nước nào cũng cho hí
trường là chỗ hóa dân trí, động nhân tâm, nên thảy thảy đều ngó nhau mà cải
lương cho trọn lành trọn tốt”. Đoạn văn trên đã chứng minh việc cải cách sân
khấu đã trở nên nhu cầu bức thiết về thẩm mỹ của quần chúng lúc bấy giờ.
https://vi.wikipedia.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét