Nguyễn
Thị Hậu
Mùa lễ hội năm nay mới bắt đầu đã làm cho xã hội phải
đồng loạt lên tiếng vì những hành vi phản cảm đang diễn ra ngày càng phổ biến
và mức độ ngày càng trầm trọng.
Quốc gia nào dân tộc
nào cũng có những lễ hội truyền thống. Đó là di sản văn hóa chứa đựng giá trị
tinh túy và luôn được gạn lọc những gì không còn phù hợp với thời đại mới. Lễ hội
là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian bao gồm phần lễ và phần hội.
Phần lễ
thường diễn ra ở những nơi trang nghiêm như: trong hoặc trước cửa đình, chùa...
Tham gia và điều hành phần lễ là các bậc cao niên có uy tín trong cộng đồng, được
cộng đồng kính trọng và tuân thủ sự điều hành trong lễ hội. Ý nghĩa của lễ là để
giao tiếp với thần linh thông qua các nghi thức tín ngưỡng thể hiện nguyện vọng
hay ký ức của một cộng đồng. Lễ hiến tế là một phần
quan trọng của lễ hội, sau lễ hiến tế là một bữa ăn chung cả làng, như là sự sẻ
chia những gì thần linh ban tặng.
Phần hội
diễn ra ở một “không gian mở” rộng lớn hơn, cho toàn thể cộng đồng và người
ngoài cộng đồng có thể tham gia, “vui như hội” vì đây là không – thời gian nhằm
thỏa mãn nhu cầu vui chơi giải trí của con người thông qua các trò chơi dân
gian thể hiện sự khéo léo, khỏe mạnh, cũng có những trò mang tính chất “phá luật”
như “linh tinh tình phộc” (tắt đèn thì trai gái “tự do”)… Nhìn chung lễ hội xưa mang đậm dấu ấn của
nông nghiệp trồng lúa với cộng đồng cư dân “làng” hẹp về không gian và nhỏ về quy
mô. Thông tin về các lễ hội xưa cũng hạn hẹp do truyền thông kiểu “truyền miệng”,
chỉ có một vài lễ hội nổi tiếng khắp vùng như Hội Gióng hội Lim…
Lễ hội có những mặt
tích cực như bảo
lưu các giá trị truyền thống của làng, nhắc nhở ý thức về cội nguồn, tưởng nhớ
tổ tiên, anh hùng dân tộc… các trò trong hội thể hiện ý thức về đồng loại, cố kết
con người vào cộng đồng, thể hiện ý thức
về mỹ tục và thể hiện tài năng văn hóa, nghệ thuật, thể thao của từng cá nhân,
của cộng đồng.
Tâm thức trong lễ hội xưa thể hiện tinh thần “dân chủ làng xã”, qua dịp lễ hội mọi người gần gũi nhau hơn. Lễ hội thường vào thời gian “nông nhàn” con người được nghỉ ngơi. Đây là dịp con người nhìn lại và giải toả những phiền muộn, lo âu, bày tỏ với thần linh những mong muốn về cuộc sống tốt đẹp hơn. Những trò “cướp lộc” trong lễ hội phản ánh rõ một nhận thức là rất ít người có được sự “may mắn” từ thần linh ban cho, còn lại những ai không có được may mắn ấy thì càng cố gắng làm ăn. Vì vậy những hành vi trong lễ hội thời xưa là mang tính biểu trưng của văn hóa.
Ngày nay lễ hội có phạm
vi không gian rộng hơn nhiều, càng rộng hơn về phạm vi ảnh hưởng vì phương tiện
truyền thông hiện đại “ngay và luôn”. Gọi là “hội làng” nhưng phần lớn là người
từ nơi khác đến tham gia, không phải ai cũng hiểu ý nghĩa và những hành vi mang
tính tượng trưng của lễ hội xưa. Ngoài ra còn cần phải nói đến tâm lý thực dụng,
thậm chí có phần tham lam của nhiều người dự lễ hội. Biết rằng “lộc” không đáng
gì nhưng “kém miếng giữa làng” thì khó chịu, “sự may mắn” bị đánh đồng với “cái
lợi” cho cá nhân nên quyết cướp giựt cho bằng được, không được thì xô xát, chửi
mắng đánh nhau. Do đó lễ hội có trò “cướp, giết” sẽ không thể kiểm soát được do
tâm lý đám đông dễ làm lây lan hành vi vô văn hóa.
Do quy mô lễ hội lớn
hơn nên mục đích ý nghĩa của lễ hội không còn thuần túy tinh thần như trước. Dễ nhận thấy nhất là sự thương mại
hóa lễ hội khá phổ biến. Để phục vụ mục đích thương mại nhiều lễ hội biến dạng
về hình thức và cả nội dung, do đó tính nhân văn của lễ hội ngày càng biến mất.
Theo TS Nguyễn Quốc Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu tôn giáo, “Chủ nghĩa
nhân bản hiện đại đã tiến những bước dài trong ứng xử với tự nhiên, xã hội, cá
nhân và cộng đồng. Các hành vi bạo lực bị lên án, các hành vi lệch lạc bị chỉ
ra và ngăn cấm... Do đó, việc duy trì bản sắc văn hóa cũng cần được đặt trong
khuôn khổ thế giới là một cộng đồng liên đới, có trách nhiệm chung, vừa duy trì
sự đa dạng, vừa đạt được sự đồng thuận theo các chuẩn mực quốc tế. Sự tuân thủ
các chuẩn mực quốc tế phải được coi là trình độ đạt đến hay chưa đạt đến văn
minh. Như thế, sự duy trì tục hiến sinh phải được đặt trong bối cảnh đó”.
Duy trì các lễ hội
truyền thống và những hoạt động trong lễ hội cũng phải đặt trong bối cảnh một
xã hội đang “xây dựng một nền văn hóa tiên tiến” bên cạnh việc gìn giữ “bản sắc
văn hóa dân tộc”. Nếu cứ duy trì những lễ hội đầy rẫy hành vi bạo lực tham lam
thì chính chúng ta đang “giết chết” di sản văn hóa. Di sản văn hóa sẽ không còn
giá trị nếu nó không vun đắp tính nhân văn của cộng đồng và lòng nhân ái, trắc
ẩn của mỗi con người.
Sài Gòn ngày 5.3.2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét