Nguyễn
thị Hậu
Một cuộc chiến kết thúc đã 40 năm, nỗi đau tuy không còn khốc
liệt nhưng vẫn âm ỉ, dai dẳng. Bên này bên kia có gia đình nào không mất mát
không chia ly, kiểu này hay kiểu khác? Bên nào không có những di chứng chiến
tranh kéo dài không chỉ một, hai thế hệ?
Bao giờ những ngày Tháng Tư sẽ là Ngày Hòa Hợp, Hòa Giải của
người Việt Nam chúng ta?
“Không một điều gì, không một ai bị lãng quên”. Lịch sử cũng
vậy mà tâm thức con người cũng vậy. Nhưng vấn đề là NHỚ như thế nào? Là người
làm công việc tìm hiểu về lịch sử - văn hóa tôi luôn tự hỏi: vì sao quá trình
hòa giải hòa hợp giữa những người Việt Nam lại khó khăn như vậy? Khó khăn đến
mức có thể làm người ta tuyệt vọng nhất là mỗi năm vào những ngày tháng tư. Những
lý lẽ mà hiện tại (nhiều người) mỗi bên đưa ra để cho rằng chưa thể, thậm chí
là không thể, hòa hợp hòa giải… có thể
cho thấy, căn nguyên không chỉ là sự kiện thắng thua được mất, mà có lẽ nó tiểm
ẩn sâu hơn trong lịch sử và văn hóa.
Thử tìm hiểu từ góc nhìn này từ một số sự kiện lịch sử và
truyện cổ tương đối phổ biến và điển hình để may chăng, tìm ra câu trả lời hay
một hy vọng cho vấn đề hòa hợp, hòa giải.
1.
Sự hình thành/thành lập các triều đại
trong lịch sử Việt Nam
Khảo sát lịch sử Đại
Việt – Đại Nam vì đây là dòng chính yếu của lịch sử nước ta. Hầu hết các vương
triều được thành lập từ những chiến thắng quân sự (chống ngoại xâm hoặc “dẹp
loạn” nội chiến), ít hơn là vài cuộc chính biến “cướp ngôi”.
Thống kê các triều đại trong lịch
sử dân tộc từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XIX :
|
Sau chiến thắng Bạch Đằng
năm 938 Đại Việt bước vào thời kỳ xây dựng nền độc lập. Mở đầu là nhà Ngô năm
939 xưng Ngô Vương. Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh “dẹp loạn” 12 sứ quân (cát cứ vùng miền)
thu giang sơn về một mối, đặt kinh đô ở Hoa Lư và quốc hiệu là Đại Cồ Việt, xây
dựng chính quyền củng cố quốc gia. Lê Hoàn thừa kế nhà Đinh lập ra nhà Tiền Lê,
chiến thắng quân xâm lược Tống. Năm 1009 nhà Lý lên ngôi và và 1010 dời đô về
Thăng Long, năm 1054 đổi quốc hiệu là Đại Việt. Từ 1075 – 1077 nhà Lý chiến đấu
chống quân xâm lược Tống. Năm 1226 nhà
Trần thay thế nhà Lý, vào các năm 1258, 1285 và 1288 ba lần quân dân nhà Trần
kháng chiến chống quân Nguyên Mông và chiến thắng vẻ vang. Năm 1400 nhà Hồ thay
thế nhà Trần. Năm 1406 nhà Minh xâm lược Đại Việt, năm 1407 Lê Lợi khởi nghĩa
và tổ chức kháng chiến chống giặc Minh đến 1428 giành thắng lợi và lập ra nhà
Lê. Năm 1527 nhà Mạc giành ngôi với nhà Lê tạo ra cục diện Nam – Bắc triều và
sau đó là xung đột Lê – Mạc. Từ 1570 – 1786 cục diện Lê – Trịnh – Nguyễn và
xung đột Đàng Trong – Đàng Ngoài. Năm 1771 khởi nghĩa Tây Sơn, “xóa bỏ” tình trạng
Nam – Bắc phân tranh vào năm 1786. Trước đó, năm 1784 Nguyễn Huệ chiến thắng
quân Xiêm ở vùng đất phía Nam, rồi năm 1789 đại thắng quân Thanh ở phía Bắc.
Năm 1802 Nguyễn Ánh thành lập triều Nguyễn và thống nhất đất nước về tổ chức
chính quyền. Năm 1858 Pháp xâm lược Việt Nam.
Diễn trình lịch sử từ
thế kỷ 10 cho đến giữa thế kỷ 19 có vài đặc điểm sau:
-
Trong khoảng hơn 10 thế kỷ liên tiếp có
chiến tranh chống quân xâm lược phương Bắc. Liên tục chống ngoại xâm là một nét
đặc biệt của lịch sử Đại Việt thời tự chủ. “Thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm
làm vương đất Bắc”. (Không kể những lần chiến tranh, xung đột với Chămpa).
-
Các vương triều liên tục xây dựng quốc
gia tự chủ. Sự thay thế các triều đại theo quy luật lịch sử: khi các vương triều
bước vào giai đoạn khủng hoảng do những nguyên nhân nội tại, từ đó không đủ sức
chống ngoại xâm hoặc chống lại thế lực khác lớn mạnh hơn, hoặc từ thắng lợi của
cuộc khởi nghĩa, kháng chiến và lập ra vương triều mới. “Ngụy triều” là quan niệm
phong kiến chỉ các triều đại không lập nên từ: 1/chiến thắng ngoại xâm; và 2/
được trao truyền, nhường ngôi.
-
Giai đoạn cuối của các triều đại thường
xảy ra tranh chấp trong triều chính hoặc khởi loạn bên ngoài. “ĐƯỢC làm VUA
THUA làm GIẶC”. “Nội chiến” giữa các thế lực phong kiến hay khởi nghĩa nông dân
là biểu hiện của quy luật xã hội phong kiến Đại Việt đã được đúc kết “Con vua
thì lại làm vua/ con sãi ở chùa thì quét lá đa/ Bao giờ dân nổi can qua/con vua
thất thế lại ra quét chùa”.
-
Đất nước mở rộng dần về phía Nam từ thế
kỷ 13, 15 đến thế kỷ 18 lãnh thổ VN về cơ bản như ngày nay. Từ 1802 có một lãnh
thổ tròn vẹn và chính quyền thống nhất từ Cà Mau đến Lạng Sơn. Trước đó, từ khi
Trịnh – Nguyễn phân tranh, tâm thức Nam Hà / Bắc Hà về lãnh thổ, chính quyền, lối
sống (văn hóa) tồn tại dai dẳng…
-
Xuất thân của các triều đại phần lớn là thủ
lĩnh quân sự, thổ hào, nông dân… nếu một hai đời vua đầu đã cố gắng tận dụng, sử
dụng (trí thức) và nâng cao tri thức để củng cố chính quyền, xây dựng quốc gia
vừa qua chiến tranh… thì càng về sau càng “lười”, chỉ dựa vào tài sản vật chất
và tinh thần ông cha để lại. Sự “thất học” của các vương triều làm “tầm nhìn” hạn
hẹp, đất nước rối loạn (tinh thần) và không thể “sánh cùng” những quốc gia
khác. Đó là nguyên nhân sâu xa và đầu tiên dẫn đến sự sụp đổ của vương triều.
2.
Một
số sự kiện thời hậu chiến của các triều đại
Sau
khi kết thúc chiến tranh chống ngoại xâm, việc đối ngoại là tha tù binh, cấp
tàu thuyền lương ăn cho về nước, bố cáo chiến thắng và sau đó là “hòa hiếu” với
kẻ thù cũ. Kẻ thù của Đại Việt thường là những quốc gia lớn mạnh hơn nhiều lần,
xâm lược Đại Việt dù có thể chiếm đóng lâu hay mau cuối cùng cũng bị đánh đuổi.
Việc “hòa hiếu” với kẻ thù cũng là để giữ quan hệ ngoại giao đảm bảo cho nền
hòa bình vừa giành được. (Lưu ý: hòa hiếu khi đã chiến thắng vẻ vang - cũng có
trường hợp (nhà Trần) tha cho giặc về nước nhưng lén đục thủng tàu thuyền cho
chết đuối cả, nại cớ bão to gió lớn làm tàu thuyền bị đắm…).
Việc
đối nội đầu tiên của các triều đại là “an dân”: có chính sách miễn thuế khóa
cho nông dân, tha tội cho những người (dân thường) lỡ theo/ làm việc cho kẻ thù
(giặc ngoại xâm) nhưng cũng trừng trị kẻ phản bội đất nước, thường là người
trong hoàng tộc hay quan lại.
Thế
nhưng sau những cuộc nội chiến giữa những thế lực phong kiến, khởi loạn cát cứ,
âm mưu đảo chính… thì sự trả thù thường “triệt để” hơn: tru di tam tộc cửu tộc,
nhổ cỏ tận gốc, đào mồ cuốc mả, anh em ruột thịt cũng không tha thứ… Lúc này quyền
lợi chính trị đặt trên tất cả.
Sử
gia thời trước thường chê trách những trường họp không triệt để trừ hậu họa, vì
đó là mầm mống của cuộc phản loạn tiếp sau. Cũng như phán xét những người giết
anh em giết vua giành ngôi bởi coi đó không phải là biểu hiện của “minh vương”.
CHÍNH DANH là điều kiện đầu tiên của một triều đại. Những triều “soán ngôi” thường
không được ghi thành “kỷ” trong sử.
-
Đinh Tiên Hoàng “dẹp loạn” – xóa bỏ tình
trạng cát cứ địa phương nhưng không phải thủ lĩnh nào cũng tuân phục: Ngô Nhật
Khánh có mẹ được làm Hoàng hậu, bản thân trở thành con rể của vua Đinh nhưng vẫn
bỏ sang Champa “rạch mặt vợ đuổi về: cha mày tưởng tao vì mày mà quên thù ư?”.
Chưa kể vua Đinh phải có những cách thức “đe dọa” như vạc dầu nuôi hổ để trấn
áp những kẻ có mưu phản loạn.
-
Các con của Lê Hoàn “Lê Đại Hành” tranh
giành giết nhau vì ngôi báu. Lê ngọa triều làm vua không chính danh cùng với những
hành vi tai ngược nên hầu như ít người nhớ đến chiến công chống giặc của ông.
-
Lý Công Uẩn lập ra nhà Lý thay thế nhà
Tiền Lê. Năm 1073 đời Lý Nhân Tông “Giam Hoàng thái hậu họ Dương, tôn Hoàng
thái phi làm Linh Nhân hoàng thái hậu. Linh nhân có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ
mà không được dự chính sự, mới kêu với vua rằng: "Mẹ già khó nhọc mới có
ngày nay mà bây giờ phú qúy người khác
được hưởng thế thì sẽ để mẹ già vào đâu?". Vua bèn sai đem giam Dương thái
hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng
Thánh Tông.
-
Nhà Trần “đảo chính” thay nhà Lý. Trần
Thủ Độ giết Lý Huệ Tông và tông thất nhà Lý. Có lần Thủ Độ qua trước cửa chùa,
thấy Huệ Tông ngồi xổm nhổ cỏ, Thủ Độ nói: "Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ
sâu". Huệ Tông đứng dậy, phủi tay
nói: "Điều ngươi nói, ta hiểu rồi". Đến nay, sai người bày biện hương
hoa đến bảo HuệTông: "Thượng phụ sai thần đến mời"… Thượng hoàng nhà
Lý nói: "Ta tụng kinh xong sẽ tự tử". Nói rồi vào buồng ngủ khấn rằng:
"Thiên hạ nhà ta đã vào tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết,
đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế". Bèn thắt cổ tự tử ở vườn
sau chùa.
-
NHÀ
HỒ
“đảo chính” nhà Trần năm 1400. Sau khi bức vua
Trần dời đô từ Thăng
Long vào Thanh
Hóa và giết hàng loạt quần thần trung thành với nhà Trần, tháng 2
năm Canh Thìn 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi của cháu ngoại mình là Trần Thiếu Đế, tự lên làm vua lấy quốc hiệu là Đại
Ngu, lập nên nhà Hồ, rồi truyền ngôi cho con trai mình “vì nhà
Trần tuyệt tự nên Hồ Hán Thương là cháu ngoại (nhà Trần) nối ngôi’.
Một
vài ví dụ trên là từ các triều đại phong kiến thời “Văn minh Đại Việt lần thứ
nhất, còn gọi là nền văn minh Phật giáo”. Sang thời Văn minh Đại Việt lần thứ
hai, còn gọi là văn minh Nho giáo:
-
Triều Lê
1428. Trần Cảo uống thuốc độc chết (hậu duệ nhà Trần mà Lê Lợi lập nên).
Bấy giờ các quan đều dâng sớ nói Trần Cảo không có công gì với dân, sao lại ở
trên mọi người, nên sớm trừ đi. Vua cũng
biết là như vậy, nhưng trong lòng không nỡ, đối xử càng hậu. Cảo biết người
trong nước không phục mình, bèn ngầm đi thuyền vượt biển trốn vào châu Ngọc Ma.
Đến Ma Cảng (đất Nghệ An) quan quân đuổi bắt được, đem về Đông Quan, bắt uống
thuốc độc chết. (nhưng nhiều thuyết khác cho rằng Trần Cảo bỏ trốn vua Lê cho
người đuổi theo giết chết vứt xác vào bụi gai).
Thái Tổ lên ngôi chưa lâu, nhưng ra
tay sát hại những công thần quan trọng như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, những đại tướng quân có công trong
việc thành lập nhà Lê. Đến vụ
án Lệ Chi Viên nổi tiếng trong lịch
sử, triều đình kết tội Hành khiển Nguyễn Trãi và thị thiếp là Nguyễn
Thị Lộ, vì khi Thái Tông băng Thị Lộ đã luôn hầu bên cạnh, bấy giờ cho rằng
Thị Lộ giết hoàng đế. Án đưa ra là tru
di tam tộc, giết đến 3 họ của Nguyễn Trãi.
-
NHÀ MẠC: Thời kỳ thịnh trị của Mạc Thái Tông cho thấy năng lực trị nước
của nhà Mạc. Đời sống nhân dân no đủ, xã hội ổn định, không gây những xáo trộn
như khi nhà Hồ thay nhà Trần. Những lực lượng chống đối nhà Mạc chính là những thế lực
cũ thân nhà Lê. Theo sử sách, thời Mạc không có một cuộc khởi nghĩa nông dân
nào. Điều đó cho thấy nhà Mạc được lòng dân. Một đặc điểm nữa là cả 5 đời vua
nhà Mạc không có nạn quyền thần trong thời gian cai trị, dù
nhà Mạc khởi nghiệp từ một quyền thần trong triều Lê. Đó là điều mà các triều
đại Ngô, Đinh, Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam đều gặp phải.
-
Trịnh-Nguyễn phân tranh là thời kỳ phân chia giữa chế
độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (sử gọi là Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở miền Nam (Đàng Trong), mở đầu khi Trịnh Tráng đem quân đánh Nguyễn Phúc Nguyên năm 1627 và kết thúc vào
cuối thế kỷ 18 khi nhà Tây Sơn dẹp cả chúa Nguyễn lẫn chúa
Trịnh. Nước Đại Việt bị chia cách hơn 100 năm.
Về mặt lý thuyết cả hai thế lực họ Trịnh và họ Nguyễn đều
mang khẩu hiệu "phù Lê diệt Mạc" để lấy lòng thiên hạ và thề trung
thành với triều Hậu Lê. Nhưng trên thực tế thì khác, cả hai đều muốn tạo nên
thế lực cho riêng mình và thèm muốn ngai vàng.
1672:
Trong một trận chiến quyết liệt không phân thắng bại giữa Trịnh – Nguyễn tại cửa
Nhật Lệ, khi chiến thuyền quân Trịnh rút lui thì tất cả tù binh được chúa Trịnh
(Căn) cho quần áo, phóng thích tại chỗ, ai muốn đi đâu thì đi. Đó là những người
bị bắt đi lính, là người địa phương không theo bên này thì theo phía kia, gần
như ngoài ý muốn. Phía chúa Nguyễn thì Hoàng tử Hiệp (Nguyễn Phúc Thuần – con
thứ tư của chúa Nguyễn Hiền Vương) cũng hiểu như vậy và hành xử nhân bản không
kém: “Sau khi quân địch rút lui, phàm những quân lính Bắc Hà bị bắt, Thuần
(Hoàng tử Hiệp) đều sai cấp cho tiền gạo quần áo, tha cho về, không giết một
người nào. Lại đặt một lễ đàn trong thành Trấn Ninh tế tướng sĩ tử vong, cũng đặt
một đàn ở ngoài thành Trấn Ninh để tế quân Hà Bắc chết trận”. Người chết bên này hay bên kia lũy Trấn Ninh
đều là dân một nước Việt, Hoàng tử Hiệp hiểu sâu sắc như vậy, tất cả đều xứng đáng
giải oan trong tình thế lịch sử đau xót đến thế.
Có
lẽ đây là một lần hiếm hoi các vua chúa có hành xử với đối phương là “gà cùng một
mẹ” một cách hợp đạo lý, có lẽ vì thấu hiểu những đau đớn mất mát của cuộc nội
chiến kéo dài gần trăm năm.
“Cái
lý” của người thắng cuộc khi hành xử kiểu trả thù, trấn áp là nhằm bảo vệ chính
quyền, vương triều, quyền lợi mới giành được. Đó là quyền lợi của một dòng họ
và để xây dựng nên một vương triều phong kiến.
3.
Từ góc nhìn văn hóa xem lại một số truyện
cổ tích phổ biến trong nước với ý nghĩa răn dạy: trừng trị kẻ tham lam độc ác.
Tấm
Cám
(hành vi đầu tiên và duy nhất của Tấm không nhờ ông Bụt là giết Cám, làm mắm gửi
cho dì ghẻ, dì ghẻ ăn thịt con khen ngon nhưng khi nhìn thấy sợ quá lăn ra chết),
Ăn khế trả vàng (người anh tham lam
đòi đổi nhà và cây khế, bắt chim thần chở ra đảo vàng lấy nhiều vàng bạc trên
đường về rơi xuống biển chết), Thạch Sanh
(Thạch Sanh được lấy công chúa, Lý Thông
chạy trốn bị sét đánh chết). Có thể kể thêm một truyền thuyết lịch sử về sự thất
bại ở thành Cổ Loa và An Dương Vương: vua cha giết con gái vì coi đó là kẻ thù,
phản bội.
Cái lý của dân gian: ác
giả ác báo, tham lam độc ác phải bị trừng trị. Nhưng lưu ý, đây đều là những
truyện về anh chị em trong gia đình (ruột/nuôi/cùng cha khác mẹ) như bầu bí
cùng chung một giàn. Vì sao không thể tha thứ được? Không nghĩ và tin rằng, sự
tha thứ có thể cảm hóa con người? Trừng phạt để khuyên răn “đừng làm điều xấu”?
Nhưng thế giới này làm sao ko có người làm điều xấu? Vấn đề là ứng xử với cái xấu
thế nào hay chỉ có một cách là “phải chết”! “Chết” không bao giờ là “hết chuyện”
mà sẽ là mở đầu cho (những) câu chuyện mới.
Lồng trong những truyện
cổ này, ngoài ý nghĩa răn dạy “Ở hiền gặp lành” ta vẫn thấy thấp thoáng cảm
giác: người nghèo luôn hiền và tốt, người giàu luôn xấu và ác. Ghét cái ác đồng
nghĩa với ghét người/sự giàu có. Mà sự phân hóa xã hội giàu nghèo thì còn tồn tại
lâu dài, cho nên triết lý đổi ngôi thay chỗ “…dân nổi can qua/con vua thất thế…”
sẽ còn là một “định hướng” trong việc lưu truyền những truyện cổ tích của một
thời xã hội nông nghiệp/nông dân và nông thôn.
Có lẽ chỉ khi nào kinh
tế chính thay đổi không còn là nông nghiệp lạc hậu (mà là nền nông nghiệp được
công nghiệp hóa, nông dân sản xuất với tư duy của công nhân nông nghiệp, nông
thôn về cảnh quan môi trường nhưng lối sống nếp sống thay đổi theo phong cách
hiện đại công nghiệp) thì chừng ấymới chấm dứt sự tồn tại, ý nghĩa của những
truyện cổ khuyến khích “diệt ác” bằng cái chết.
4.
Hòa hợp hòa giải thực sự - là một con đường dài và khó khăn.
Chính sách, hành xử của hai bên thắng/ thua chỉ là bề nổi/mặt sáng của con đường
này. Mặt khuất của quá trình là tâm thức, căn cốt văn hóa tồn tại lâu dài trong
con người, trong những thế hệ. Không hòa hợp hòa giải thực sự thì những gì
trong quá khứ sẽ lặp lại ở tương lai.
Những câu truyện/ chuyện cổ và lịch sử đều có hai mặt,
hai bài học. Một mặt sáng, ai cũng dễ nhìn thấy, thích nhìn thấy, bằng lòng (dễ
dãi) với nó. Một mặt khuất mà chỉ khi ta bình tâm lắng lòng mới có thể nhận ra,
nhưng đó chính là những điều sâu sắc mà tiền nhân muốn đời sau nhận thấy. Chừng
nào còn hả hê thỏa mãn với sự trả thù, coi sự trả thù (bằng hành vi, lời nói)
là cách duy nhất để “giải quyết mâu thuẫn” thì chừng đó cái ác còn tiếp tục. Tôi
rất thích cách người Mỹ dạy trẻ em câu chuyện “Lọ Lem”: nhìn từ hai phía để tìm
ra “cái lý” của những hành xử bị coi là ác. Từ đó mới hiểu vì sao phần lớn những
truyện theo motif Lọ Lem ở nhiều nước thường dừng lại ở việc: Lọ lem kết hôn với
Hoàng tử, hai người hạnh phúc và cai trị đất nước tốt đẹp. Còn mẹ con dì ghẻ
thì “xấu hổ bỏ đi”. Người làm điều ác biết xấu hổ, tức là còn lòng tự trọng và
như vậy, ta có thể tin rằng, cái ác sẽ không tiếp tục.
Thay đổi tâm thức: thực sự coi trọng con người “vì
con người – vì dân”. Bắt đầu từ giáo dục: không chỉ dạy về điều tốt mà học lịch
sử còn là để nhận ra sai lầm của quá khứ để đừng lặp lại sai lầm (thành tựu thì
mỗi thời đều có sự độc đáo vì thể hiện sự phát triển của xã hội, nhưng sai lầm
các thời thì thường giống nhau) học văn (hóa) còn là để nhận ra cái xấu cái ác
trong mỗi con người, trong “truyền thống”, bởi vì sự nhân văn sẽ làm thay đổi
con người chứ không phải là sự trả thù. Sinh
mạng con người là quý giá, phải biết biết quý trọng sinh mạng bản thân và đồng
loại. Cái ác có thể là phương thức nhanh chóng để giành được cái mình muốn có
nhưng không thể giữ được lâu dài, bởi vì gieo mầm độc ác thì sẽ gặt hái tai họa.
Độc quyền quá khứ, khen
chê yêu ghét một chiều, cường điệu hóa lịch sử của một phía, chính điều này làm
cho thời hậu chiến trở thành cuộc “nội chiến” tinh thần giữa hai bên “thua thắng”,
đào sâu hố ngăn cắt giữa những con người bởi quá
khứ, Một quá khứ mà chúng ta mong muốn
khép lại... Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu
người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc,
cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu... (Cố Thủ tướng
Võ Văn Kiệt). Nếu luôn chỉ nhìn thấy một
phía của quá khứ thì đâu còn đủ bình tĩnh để nhìn thấy hiện tại và tương
lai chung của đất nước này.
Tất nhiên, “khép lại quá khứ” nhưng lịch sử
cần minh bạch, khoa học. Dù muốn hay không thì thắng/thua là kết cục của hầu hết
những cuộc chiến. Xem xét toàn diện xã hội hai bên (không chỉ về quân sự, chính
trị) sẽ nhìn nhận được nhiều kinh nghiệm rất hữu ích cho xã hội hiện nay.
Bao giờ sẽ đến một tháng Tư khác, tháng
Tư của hàng triệu người vui và hàng triệu người khác không còn buồn nữa?
NGHĨ cho cùng sau mỗi cuộc chiến tranh
PHE nào thắng thì nhân dân cũng bại.
(Nhà thơ
Nguyễn Duy)
Nhân dân là
gia đình anh em bà con, là bạn bè, là mỗi người Việt Nam chúng ta.
Sài Gòn – Paris –
Berlin, 7.2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét