Mỗi lần về quê vào dịp Tết, sau khi
lên nhà trên thắp nhang bàn thờ ông bà, tôi thường xuống ngay gian bếp, nơi ngoại tôi luôn ở đó
với nụ cưới móm mém chờ tôi chạy vào ngồi kế bên ngoại, thơm sực mùi trầu.
Gian bếp của ngoại nằm ngang so với
nhà trên, từ nhà trên đi xuống qua một hành lang dài mái tôn có máng xối hứng
nước mưa vào hai hàng lu mái. Nhà bếp mái ngói cũ nâu thâm lác đác những chiếc
lá của cây mận hồng đào sau bếp. Ngoại nói cây mận này ngoại trồng hồi má tôi
sinh tôi, nay cũng đã tuổi “U 50” rồi mà vẫn rất sai trái. Vào mùa gần Tết từng
chùm trái đỏ rực, lúc lỉu trên cành, mỗi đêm gió chướng lại rụng lộp bộp, trẻ
con khoái lượm những trái mận chín rụng, ăn giòn và ngọt như đường phèn.
Cũng như nhiều gian bếp trong những
ngôi nhà miệt vườn Nam bộ, gian bếp của ngoại rộng rãi, sáng sủa, cửa ra vào
hai cánh bằng gỗ luôn rộng mở. Cửa sổ sát mé con rạch Cái Tôm đón từng cơn gió
mát rượi ngày hai lần nước lớn, lúc nước ròng thoảng mùi bùn non và tiếng cá
quẫy… Ngay cửa bếp là sàn nước rửa chén bát và làm đồ ăn. Bước vô, một đầu gian
bếp là khuôn bếp, cao khoảng 0,8m, dài 1,2m rộng 0,5m, đóng bằng cừ tràm lâu
ngày đen bóng. Ba “ông lò” luôn sạch than tro, phía trên có cà ràng chặn khói,
bên cạnh là ống thổi, kẹp gắp than, miếng lót nhắc nồi. Phía trên khuôn bếp cậu
Út tôi làm một mái tôn có ống hút khói, tránh cho ngoại và mợ Út khỏi cực khi
mùa mưa dầm củi ẩm ướt. Phía dưới khuôn bếp xếp củi đã chẻ nhỏ, từng bó lá dừa
chặt đầu đuôi bằng nhau, gọn gàng. Trên vách là hai hàng đinh treo những chiếc
nồi, xoong, chảo lớn nhỏ thường được mợ Út tôi chùi rửa sạch sẽ. Nhớ những lần
ở quê có đám tiệc, tôi luôn phải “chỉ huy” con gái tôi và mấy đứa cháu mang nồi
xoong chảo ra sông chùi rửa bằng trấu và tro bếp. Khi những chiếc nồi xoong
bóng loáng treo trong bếp theo thứ tự lớn nhỏ chuẩn bị cho việc nấu nướng vào
ngày mai, thì tụi nhỏ móng tay đứa nào cũng đen thui, dùng chanh rửa hoài không
sạch hết.
Kế bên khuôn bếp là tủ đựng thức ăn,
phía dưới để các loại chai lọ hộp đựng gia vị.
Gian giữa của bếp đặt tủ chén bát,
ống đũa muỗng treo bên cạnh tủ. Một bàn ăn tròn có thể gập lại một nửa lại cho
gọn. Mấy chiếc ghế gỗ, một giá gỗ thấp để đặt nồi cơm. Bữa cơm hàng ngày nhà
ngoại thường ăn dưới bếp, trừ khi có khách lạ hay có đám tiệc thì dọn cơm ở nhà
trên. Khách quen thân tới nhà vào bữa thường được ngoại mời cơm luôn, nếu chưa
ăn khách vui vẻ cùng ăn, còn nếu khách ăn rồi thì tới ngồi trên bộ ván uống
nước trà, hay ngả lưng trên chiếc võng treo tòng teng bên cửa sổ. Gian còn lại
kê bộ ván ngựa, nơi ngoại thường ngồi với ô trầu hay giỏ đồ may bên cạnh, vào
buổi trưa là nơi ngả lưng của ông ngoại sau khi đã sương sương vài ly trong bữa
cơm trưa… Má tôi kể, hồi xưa mỗi lần giận ông ngoại là ngoại… xuống bếp ngủ.
Một đêm, hai đêm…ông ngoại phải xuống năn nỉ, và sau đó má tôi lại có thêm một
đứa em, vì vậy bây giờ nhà ngoại có cậu Út tới thứ 12 lận!
Có dịp đi nhiều vùng miền trong nước,
tôi nhận thấy gian bếp của ngoại tôi, của những gia đình Nam bộ thật đặc biệt.
Bước vào gian bếp có thể nhận biết sự vén khéo của những người phụ nữ trong gia
đình vì tuy là nhà bếp nhưng luôn sạch sẽ, thoáng mát. Đồ đạc sắp xếp thật tiện
lợi, nhất là khuôn bếp đứng, khi nấu nướng không mất công đứng lên ngồi xuống,
đồ dùng đặt để đúng tầm tay, nhất là dãy nồi xoong luôn chùi rửa sạch bong,
không sợ quệt lọ nồi dơ bẩn quần áo, dường như nhờ đó người phụ nữ khi làm bếp
cũng thong thả ung dung hơn…
Bếp là nơi sinh hoạt của cả gia đình
vào mọi thời điểm trong ngày. Ban ngày nhà trên thường khép cửa, mọi người đi
vắng, khi trở về thì vào bếp trước, cửa bếp hầu như không bao giờ đóng. Lúc
rảnh rỗi, ông ngoại, hay sau này là cậu Út tôi, cũng thường ở dưới bếp, ngồi
trên chiếc võng đong đưa bàn công chuyện nhà với bà ngoại hay với mợ Út. Bếp là
nơi ngoại và mợ Út có “toàn quyền quyết định” những việc bếp núc, đám tiệc, giỗ
chạp, hiếu hỉ bà con lối xóm… Bếp là nơi cả nhà quây quần hai bữa cơm trưa tối,
nơi mỗi chiều ông ngoại, cậu Út ngồi lai rai con khô nướng quyện mùi khói lá
dừa ngọt ngào. Nếu có khách đột xuất thì món nhậu cũng được mợ Út tôi chế biến
rất nhanh. Trong bếp nhà ngoại tôi còn thường có sẵn một vài món ăn như nồi
cháo trắng, chảo cơm chiên vào buổi sáng, tô bánh lọt nước dừa lúc xế trưa, hay
nồi khoai, bắp nấu vào buổi tối… Bếp là nơi những người quen thân hay ghé vô
ngồi chơi, đôi khi cũng bàn công chuyện (và nếu người quen ghé nhà mà được mời
lên nhà trên uống nước nói chuyện thì hoặc là có việc quan trọng, hoặc coi
chừng, tình cảm hai bên đã có điều gì sứt mẻ…). Nhà ngoại tôi nằm kế rạch Cái
Tôm gần chợ Cao Lãnh nên đôi khi vào ban đêm, có khách lỡ đường ngủ nhờ, trên
bộ ván mát rượi nơi nhà bếp khách vẫn cảm thấy quen thuộc như đang ở nhà mình.
Gần Tết, các con gái tôi lại háo
hức: mẹ, bữa nào về quê ngoại đi, mẹ!
Ừ, về quê để đắm mình trong từng cơn gió chướng như thoảng hương sen từ Đồng
Tháp Mười gửi tới, để nằm trong gian bếp của ngoại mà lắng nghe từng trái mận
trở mình chín ngọt ngoài kia, để hít sâu vào lồng ngực mùi thơm khói lá dừa
nướng bánh phồng. Ừ, về quê lần này mấy đứa phụ mẹ và ngoại gói bánh tét bánh
ít nghen… Nhưng không phải chùi xoong nồi
nữa, mẹ nhỉ, vì nhà ngoại bây giờ đã có bếp gaz. Con gái Út của tôi vừa nói
vừa thở phào, nhẹ nhõm…
Chợt giật mình, quê ngoại giờ đã là
thành phố Cao Lãnh, làng xóm đô thị hóa khá nhanh, liệu vài năm nữa các con tôi
có còn thích về quê…?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét