Hồi mới về Sài Gòn nhà tôi ở gần sân bay Tân Sơn Nhất.
Hàng ngày, tôi vẫn đi về qua cây cầu Công Lý nổi tiếng gắn liền với tên tuổi
anh hùng Nguyễn Văn Trỗi. Nhưng ấn tượng mà cây cầu gây cho tôi hẳn không chỉ
có vậy.Hàng ngày, tôi cũng nhìn thấy những dãy nhà lụp xụp kéo dài khuất tầm mắt,
lan từ ven kênh đến sát phía sau những biệt thự cao ốc sang trọng là mặt tiền của
con đường rực rỡ đèn màu cửa kính... Rồi cứ đi dọc ven kênh sẽ qua nhiều con đường
khác: Hai Bà Trưng với cầu Kiệu, Trương Minh Giảng (sau này là Nguyễn Văn Trỗi)
với cầu cùng tên...
Xóm ven kênh hình như không bao giờ thấy bình minh,
ban ngày ánh sáng vẫn nhờ nhờ. Còn khi chiều đến, bóng tối, không thèm đợi hoàng
hôn, sụp xuống rất nhanh. Dòng nước đen đậm đặc mùi xú uế lưu cữu hàng chục năm
làm cho bất cứ ai mới bước chân đến đây đều có thể “chết” vì ngạt thở. Nhưng
người sống ở đó thì dường như chịu đựng quen đến mức không biết là có nơi khác
không khí dễ thở hơn... Ngày nắng, mái tôn vách ván phơi mình cong vênh ngày
mưa dãy cọc nhà sàn liêu xiêu chìm trong nước... Bờ kênh tràn rác, muỗi dày đặc,
chuột chạy như chốn không người… Đó là hình ảnh nơi cư ngụ của hàng ngàn gia
đình, trôi dạt về đây sinh sống từ bao nhiêu nơi, trong bao nhiêu năm qua. Sài
Gòn – Chợ Lớn không thiếu những dòng kênh đen và những xóm ven kênh như vậy.
Hình ảnh Nhiêu Lộc – Thị Nghè đã tồn tại như thế
trong mắt tôi ngót nghét ba thập kỷ, cho tới khi xảy ra một sự kiện quan trọng
vào năm 2003.Trước tình trạng ô nhiễm nặng của
kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè, tuyến kênh dài hơn 13 cây số, chính quyền thành phố
đã quyết định đầu tư hàng ngàn tỷ đồng để thực hiện việc cải tạo, nâng cấp với
mong muốn thành phố sẽ có một dòng kênh xanh-sạch-đẹp.Dự án này cũng nằm
trong mục tiêu thứ hai là giảm thiểu tình trạng
ngập lụt vào mùa mưa, và điều hòa khí hậu trên địa bàn một Sài Gòn, nay đã mở rộng
thành một tỉnh thành với cái tên Thành phố Hồ Chí Minh. Đó là lý do vì sao người
ta luôn thấy ngổn ngang lô cốt khắp những con đường lớn nhỏ của thành phố.
Tuy cảm thấy bất tiện, thậm chí khó chịu, nhưng người
dân thành phố, trong đó có hàng ngàn cư dân xóm Nhiêu Lộc – Thị Nghè, vẫn đón
nhận chuyện này với sự hào hứng. Có điều, sự hào hứng đó kéo dài không lâu.Dự án Vệ sinh môi trường lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè, sau
cú “đề pa” đầy hào sảng, như tiếng phát ra từ ống “pô” những chiếc Vespa cổ,
trong mấy năm sau cứ lịm dần, rồi tịt hẳn.
Chuyện xôn xao bắt đầu từ việc giải tỏa những xóm nhà sàn ở trên và hai bên dòng kênh đen ngòm dày đặc rác. Những ngôi nhà mái tôn vách bằng lá dừa, hay bằng thùng giấy, hoặc bằng bất cứ gì có thể che chắn được, đã dần dần được giải tỏa. Rồi những chiếc máy xúc, cần cẩu xuất hiện, một vệt ngổn ngang nào xà bần, nào bùn rác...Con đường đã thành hình ở hai bên bờ kênh. Dãy nhà mới nhô ra ở bên từng con đường lúc đầu cũng nhếch nhác không kém những ngôi nhà vừa bị ủi đi. Nhưng, như một phép màu, chúng được sửa sang, hay xây mới rất nhanh, bởi có nhà “mặt tiền” là sẽ kiếm ra tiền thôi mà. Vẫn còn nhếch nhác, ngổn ngang, vẫn mùi xú uế, nhất là khi nước ròng. Nhưng hở ra đoạn đường nào là hàng quán mọc ra đến đấy. Quán cà phê, quán nhậu, quán nhà lầu, hay quán lá dựng tạm ven kênh. Có quán chỉ là vài bộ bàn ghế, kiểu quán “cóc” ngoài Hà Nội, có quán lại rộng rãi, khang trang, với máy lạnh, đèn màu sáng trưng...
Chuyện xôn xao bắt đầu từ việc giải tỏa những xóm nhà sàn ở trên và hai bên dòng kênh đen ngòm dày đặc rác. Những ngôi nhà mái tôn vách bằng lá dừa, hay bằng thùng giấy, hoặc bằng bất cứ gì có thể che chắn được, đã dần dần được giải tỏa. Rồi những chiếc máy xúc, cần cẩu xuất hiện, một vệt ngổn ngang nào xà bần, nào bùn rác...Con đường đã thành hình ở hai bên bờ kênh. Dãy nhà mới nhô ra ở bên từng con đường lúc đầu cũng nhếch nhác không kém những ngôi nhà vừa bị ủi đi. Nhưng, như một phép màu, chúng được sửa sang, hay xây mới rất nhanh, bởi có nhà “mặt tiền” là sẽ kiếm ra tiền thôi mà. Vẫn còn nhếch nhác, ngổn ngang, vẫn mùi xú uế, nhất là khi nước ròng. Nhưng hở ra đoạn đường nào là hàng quán mọc ra đến đấy. Quán cà phê, quán nhậu, quán nhà lầu, hay quán lá dựng tạm ven kênh. Có quán chỉ là vài bộ bàn ghế, kiểu quán “cóc” ngoài Hà Nội, có quán lại rộng rãi, khang trang, với máy lạnh, đèn màu sáng trưng...
Nếu như vào năm 2003 ước chỉ có vài chục quán thì nay đã có hàng ngàn quán, mọc lên như nấm mùa mưa. Và người ở đâu
lại đổ đến đây tấp nập mỗi chiều…Dân nhậu đất Sài Thành bắt đầu quen với thuật
ngữ quán
bờ kè, vừa là địa chỉ chung cho một khu ăn nhậu bình dân mới hình
thành, vừa thể hiện đầy đủ những đặc trưng của “Sài Gòn nhậu”: mồi ngon, phong
phú, lại khá rẻ; nhiều loại bia rượu từ bình dân đến cao cấp; chỗ ngồi thoải
mái, muốn máy lạnh, hay muốn hưởng gió trời, đều có cả; chủ quán và phục vụ nhiệt
tình, có người giữ xe máy không mất tiền lại còn cẩn thận dẫn xe giùm khi có ai
lỡ xỉn quá. Nhiều quán còn có các em gái tiếp viên mùa nào cũng áo thun hai dây
ôm sát cái eo thon và quần ngắn khoe cặp chân dài. Rồi các em tiếp thị bia, thuốc
lá, hay các cụ già và em nhỏ bán vé số mang đến tận bàn. Thỉnh thoảng có mấy
anh chàng “múa lửa”, hay bán kẹo kéo, cùng dàn loa khủng oang oang nhạc sến, à
quên, bolero…
Thôi thì ở đâu “chơi” kiểu nào thì quán bờ kè “chơi”
kiểu đó.
“Với tất cả sự khiêm tốn những người tự nhận mình
khiêm tốn”, tôi vẫn phải thừa nhận rằng, tôi và bạn bè đã thường xuyên góp phần
vào sự tấp nập nơi bờ kè. Mỗi chiều, đến giờ tan sở, cứ nghĩ đến đường về nhà
phải trải qua vài đoạn kẹt xe hàng giờ vì lô cốt, hình như ai cũng ngán ngại… Vậy
là nhắn nhau “ra bờ kè nhé”. Chẳng cần nói tên quán, vì nhóm nào cũng có một,
hai “quán ruột” của mình.
Quán “Ốc núi” của bọn tôi nằm ở một đoạn đường khuất,
trước quán có hàng điệp mới trồng cao hơn đầu người nhưng đã trổ bông vàng, và
dòng kênh uốn mình, hẹp lại, nhưng hiện ra gọn gàng giữa hai bờ mới kè lại đều
tăm tắp. Nhiều năm qua, quán này đã vài lần đổi chủ, nhưng không đổi khách.
“Băng” tụi tôi thích quán này vì… nó vắng, đã thế đồ ăn khá vừa miệng, lại rẻ nữa.
Ngồi đây tha hồ chuyện trên trời dưới đất, không có tiếng dô dô ồn ào xung
quanh, lại có thể chỉ ngồi im lặng, lơ đãng ngó đường, ngó kênh, ngắm nhìn
hoàng hôn chầm chậm mỗi chiều…
Lý do này thiệt là vô duyên, hổng chừng chủ quán mà
nghe thì đuổi cả đám, vì ai mở quán mà mong vắng khách, phải hôn? Quán vắng, có
lẽ, vì nó nằm gần như tách biệt khỏi khu vực tấp nập đằng kia, tôi tự lý giải.
Mỗi lần ghé quán là một lần thấy sự thay đổi của dòng kênh, của những ngôi nhà
hai bên, và của cả con người ở đây.
***
Nhìn trên bản đồ cổ xưa của Sài Gòn – Bến Nghé, ta
thấy Nhiêu Lộc - Thị Nghè từng là con rạch/sông
đóng vai trò quan trọng trong tưới tiêu, và là tuyến giao thông xuyên suốt qua
những khu vực trung tâm của thành phố.
Gia Định Thành Thông Chí (Trịnh Hoài Đức, 1820) đã miêu tả về con
sông này như sau: “Sông Bình Trị, tục gọi sông Bà Nghè, ở địa phận tổng Bình Trị
về phía bắc trấn, từ sông Tân Bình quanh sau trấn lỵ đến cầu Ngang, ngược dòng
lên tây độ bốn dặm rưỡi đến cầu Cao Miên (nay
là cầuBông), chảy về tây bắc độ hai dặm đến chợ Chiểu (chợ Bà Chiểu nay), chảy về phía nam độ bốn dặm đến Phú Nhuận, sáu
dặm rưỡi đến cầu Huệ là cùng nguyên, nơi đây có những ao vũng tản mạn”.
Là một
trong ba tuyến sông tự nhiên cổ nhất (cùng với sông Sài Gòn và sông Bến Nghé),rạch
Nhiêu Lộc – Thị Nghè và lưu vực của nó hiện nay là một vùng khá rộng ăn sâu vào
lòng thành phố với nhiều chi lưu và đi qua các quận 1, 3, 10, Bình Thạnh, Phú
Nhuận, Tân Bình, và Gò Vấp. Từ khoảng giữa thế kỷ 20, rạch Nhiêu Lộc – Thị Nghè
mất dần chức năng lưu thông, chỉ còn chức năng tưới tiêu cho vùng nông nghiệp
vườn ở các quận ven. Dân cư ven kênh rạch phần lớn còn là nông dân. Ký ức của
nhiều người lớn tuổi còn nhớ, lúc đó những con sông, rạch trong thành phố chưa
ô nhiễm nặng, ngày vẫn hai lần nước lớn nước ròng, nên nước còntrong, trẻ con
còn bơi lội trên sông.
Chiến tranh. Dân nhập cư đổ về
thành phố ngày càng nhiều, người nghèo lập nên những xóm ven kênh lan dần từ
ngoại ô vào trung tâm, nhà cửa ngày càng chen chúc trên bờ, chồm ra kênh rạch.
Chất thải, rác rưởi tù đọng dưới sàn nhà, lấp dần kênh rạch, khiến nước không
còn lưu thông được nữa. Mỗi ngày, khi thấy có chút gió mát thì biết lúc nước lớn,
thấy đứng gió nực nội là biết nước ròng.
Nhưng rồi cũng đến lúc Dự án Nhiêu
Lộc – Thị Nghè “tăng tốc”. Gần một năm nay dòng kênh nước đã sạch hơn mỗi ngày,
và gần như không còn tình trạng vứt rác xuống kênh. Nhất là từ khi hai bên bờ
đã được dựng hàng rào sắt, vỉa hè lát gạch sạch sẽ, trồng cây, trồng hoa, hàng
đèn đường vươn cao thanh thoát… Những chung cư cao tầng mọc lên, dân cư sống tại
đây đã quen với việc giữ gìn vệ sinh công cộng, giữ gìn cảnh quan chung. Ngay
những quán nhậu bờ kè ngày nào còn thoải mái xả rác ra đường thì nay cũng đã biết
tự kiềm chế rất nhiều. Thế mới biết việc xây dựng nếp sống văn minh đô thị đâu
chỉ cứ hô hào suông, hay trông chờ vào sự chuyển biến của ý thức cư dân. Bởi vì
khi điều kiện sống chưa thay đổi, khó có thể hình thành lối sống mới. Nếu coi
môi trường sống là biểu hiện của “văn hóa vật chất”, còn lối sống nếp sống của
cư dân là “văn hóa tinh thần”, thì hai mặt này luôn có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, là tiền đề cho nhau tự hoàn thiện. “Phố của người - người của phố” là một
mệnh đề của xã hội học đô thị hiện đại.
Ngồi trong quán vắng bên bờ kè,
chúng tôi lại mơ, rằng mai này kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè lại trở thành sông,
cùng với sông Bến Nghé – Tàu Hũ ven đại lộ Đông Tây cũng vừa được nạo vét, sẽ
phục hồi cảnh quan “trên bến dưới thuyền” cho du lịch thành phố, phục hồi văn
hóa sông nước đặc trưng của Sài Gòn – Chợ Lớn.
Sống giữa thị thành hôm nay vẫn cần
lắm những giấc mơ - những giấc mơ về ngày xưa sẽ trở lại trong hiện thực tốt đẹp
hơn của ngày mai.
Sài Gòn, 2013
Sài Gòn, 2013
Nhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.
Trả lờiXóa