Lăng Ông (Bà Chiểu) 31.10.2025

 Thỉnh thoảng trên đường đi làm ghé qua thắp nhang. Một không gian yên tĩnh, sạch sẽ, tôn nghiêm mà gần gũi thân thiện. Ngày thường nhưng ở đây lúc nào cũng có người đến viếng.








































BẢN SẮC ĐÔ THỊ SÀI GÒN TRONG BỐI CẢNH NAM BỘ (trích phần đầu và cuối của một bài dài)

Nguyễn thị Hậu

Lời mở
Nam bộ nói chung và vùng đất Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh nói riêng vẫn thường được gọi là “vùng đất mới”, “vùng đất có 300 năm lịch sử”. Không thể phủ nhận vai trò của lưu dân khai khẩn trong giai đoạn từ thế kỷ XVII, XVIII trở đi, tuy nhiên khoa học lịch sử và khảo cổ học cũng đã cho biết, nơi này từng có 1000 năm trước công nguyên với những cộng đồng dân cư thời tiền sử của văn hóa khảo cổ Đồng Nai, rồi từ đầu Công nguyên có nền văn minh Óc Eo của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ I đến thế kỷ VII. Do đó Nam bộ là “vùng đất mới” đối với những lớp người đến đây trong các giai đoạn về sau, còn bản thân nơi này có một quá trình lịch sử lâu dài, đa dạng về tộc người và văn hóa.
Cái nhìn về Nam bộ như một “vùng đất mới” tồn tại khá bền chặt trong giới nghiên cứu lịch sử và tư duy quản lý nhà nước, có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội và cũng để lại hệ lụy trong việc cố gắng bảo tồn di sản và bản sắc văn hóa Sài Gòn – Nam bộ. Bởi vì với quan niệm vùng đất Nam bộ - Sài Gòn là “muộn”, là “mới”, lại liên quan khá nhiều đến thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn – vốn bị định kiến trong lịch sử - nên đã dẫn tới tâm lý không coi trọng những giá trị văn hóa (vật thể và phi vật thể) độc đáo, hình thành và tồn tại lâu bền ở đây. Đến nay, những di tích “Sài Gòn trăm năm” bị phá hủy gần hết do quá trình đô thị hóa qua nhiều thời kỳ, cũng như do nhận thức thiếu sót của chính quyền về giá trị của những di sản này từ sau khi đất nước hòa bình vào năm 1975.
Vì vậy, tìm hiểu những đặc điểm về lịch sử - văn hóa một thành phố, một vùng đất chính là cách thiết thực giữ gìn di sản, trước hết vì đấy là tài sản văn hóa của cộng đồng. Giữ gìn di sản trước hết vì “người sống” chứ không phải chỉ vì bản thân di sản. Việc cố gắng bảo tồn những di tích lịch sử văn hóa của TP. Hồ Chí Minh hay các tỉnh Nam bộ là nhằm xây dựng xã hội hiện đại với không gian sống có chiều sâu ký ức. Sống trong không – thời gian đó con người sẽ giàu có hơn về mặt tinh thần. Bảo vệ di sản văn hóa là để con người sống tốt hơn cho hôm nay chứ không chỉ là bảo vệ một ý niệm nào đó của quá khứ dù đẹp đến đâu.
I. Vị thế địa – kinh tế - văn hóa của các đô thị Nam bộ
1.1 Dưới triều Nguyễn. Năm 1808, vua Gia Long nhà Nguyễn đổi trấn Gia Định thành Gia Định Thành, bao gồm 5 trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh Thanh (sau chia ra Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường (sau này là Định Tường) và Hà Tiên.
Năm 1834 Vua Minh Mạng đặt ra Nam Kỳ và chia thành 6 tỉnh nên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh. Đó là các tỉnh: Phiên An, năm 1836 đổi thành Gia Định (tỉnh lỵ là tỉnh thành Sài Gòn), Biên Hòa (tỉnh lỵ là tỉnh thành Biên Hòa), Định Tường (tỉnh lỵ là tỉnh thành Mỹ Tho) ở miền Đông; Vĩnh Long (tỉnh lỵ là tỉnh thành Vĩnh Long), An Giang (tỉnh lỵ là tỉnh thành Châu Đốc) và Hà Tiên (tỉnh lỵ là tỉnh thành Hà Tiên) ở miền Tây.
Từ cuối thế kỷ XVII, năm 1698 chúa Nguyễn đã “lập phủ Gia Định, dựng dinh Trấn Biên” thiết lập thôn xã phường ấp, khuyến khích dân cư khai khẩn đất hoang, định tô thuế, lập sổ đinh. Trước đó năm 1679 đã có những nhóm người Hoa “bài Thanh phục Minh” được chúa Nguyễn cho vào cư trú ở vùng đất phương Nam. Với kinh nghiệm và truyền thống buôn bán lâu đời, những người Hoa “tỵ nạn chính trị” này đã lập phố xá buôn bán và hoạt động thủ công nghiệp.
Gia định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức vào khoảng năm 1820 đã cho biết các trấn thời Nguyễn ở Nam bộ vào đầu thế kỷ XIX đã là những trung tâm kinh tế sầm uất, cùng thành trì là trung tâm hành chính thì nhà cửa phố xá bến chợ luôn được nhắc đến như một thành phần quan trọng của một trấn. Sau đây là vài miêu tả trong phần Thành trì chí.
Trấn Phiên An có Chợ phố Bến trước thành, phố chợ, nhà cửa rất trù mật... tụ tập hàng trăn thứ hàng hóa, dọc bến sống thuyền buôn lớn nhỏ đi lại san sát . Phố Sài Gòn (Chợ Lớn) đường phố lớn, thẳng suốt ba đường giáp đến bến sông... đan xuyên nhau như chữ điền, phố xá liền mái, người Việt và người Trung quốc cùng sinh sống... Hai bên nam - bắc bến sông không thứ gì là không có ; Ngoài ra còn có các chợ khác cũng nổi tiếng như Chợ Khung Dong (chợ cây da còm), Chợ Điều Khiển, phố chợ Lịch Tân (chợ Bến Sỏi), chợ Tân Kiểng...
Trấn Biên Hòa có phố lớn Nông Nại – cù lao Đại Phố. mái ngói tường vôi, lầu quán cao ngất, dòng sông rực rỡ, ánh nhật huy hoàng, liền nhau tới 5 dặm, chia làm 3 đường phố, đường phố lớn lát đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lót đá xanh, toàn thể đường bằng phẳng như đá mài, kẻ buôn tụ tập, thuyền đi biển, đi sông đều đến cuốn buồm neo đậu, đầu đuôi thuyền đậu kế tiếp nhau, thật là một chỗ đô hội…
Trấn Định Tường có chợ và phố lớn Mỹ Tho, mái ngói cột chạm phủ, đình cao, nha thự rộng, thuyền bè sông biển ra vào, buồm thuyền trông như mắc cửi, thật là nơi đô hội lớn phồn hoa huyên náo .
Trấn Vĩnh Thanh có chợ Vĩnh Thanh, chợ Long Hồ phố xá liền nhau hàng hóa cả trăm món, dài đến 5 dặm ghe thuyền đầu suốt bến, miếu thần, đình làng mọc lên, đờn ca náo nhiệt, là chợ phố lớn của trấn. Chợ Sa Đéc: phố chợ nằm dọc theo bờ sông, mái nối mái liền nhau đối nhau san sát như vảy cá... trên bờ dưới sông có hàng trăm thứ hàng hóa tốt đẹp, nhìn ngợp mắt thỏa lòng, quả là chốn phồn hoa .
Trấn Hà Tiên: đường xá giao nhau, phố xá nối liền. Người Việt người Hoa người Cao Miên người Chà Và tụ họp chia ở, thuyền biển ghe sông qua lại như mắc cửi, thất là nơi đô hội góc biển vậy .
Giai đoạn Chúa Nguyễn mở mang vùng đất Nam bộ cũng là giai đoạn họat động ngọai thương ở khu vực Đông Nam Á khởi sắc. Ngòai thương cảng Hội An nổi tiếng từ thế kỷ XVI, các trung tâm thương nghiệp mới như Cù Lao Phố (Biên Hòa, Đồng Nai), Mỹ Tho, Hà Tiên... cũng phát triển nhờ lợi thế của hệ thống giao thông đường thủy (cảng biển, sông rạch...). Từ năm 1790 Thành Gia Định từ một trung tâm chính trị mau chóng trở thành thương cảng lớn của Đàng Trong và trong khu vực Đông Nam Á.
Đến thời nhà Nguyễn, Gia Định thành là một đô thị có vai trò sánh ngang Thăng Long và Phú Xuân, nhưng khác với Thăng Long và Phú Xuân vai trò chủ yếu là trung tâm chính trị, Sài Gòn – Gia Định được nhìn nhận vai trò kinh tế quan trọng (thương nghiệp, thủ công nghiệp) bên cạnh vai trò trung tâm chính trị - văn hóa của Đàng Trong: thành phố này đã hình thành theo quy luật của các đô thị tiền tư bản, tức yếu tố “thị” có trước rồi phát triển thành yếu tố “thành” chứ không phải như các đô thị phong kiến ở đó yếu tố “thành” có trước rồi mở rộng thêm yếu tố “thị” .
...
III. Bản sắc Sài Gỏn - Bản sắc Nam bộ
3.1 Trong quan niệm và ngôn ngữ của người dân đồng bằng sông Cửu Long, “thành phố” gần như một danh từ riêng để chỉ Sài Gòn dù miền Tây có nhiều đô thị sầm uất, như Cần Thơ – “Tây đô”, như Long Xuyên – thành phố bên bờ sông Hậu, như Mỹ Tho bên sông Tiền – một “đại phố” từ thủa mới hình thành… Điều đó có hoàn cảnh lịch sử của nó.
Như đã nói ở trên, từ đầu thế kỷ XIX vùng Gia Định gồm 5 trấn là Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Sự trù phú về tự nhiên và phát đạt về kinh tế của năm trấn này được Gia Định thành thông chí miêu tả và liệt kê đầy đủ. Trấn Phiên An (vùng Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định) là trung tâm của Gia Định và là đơn vị hành chính thống quản 5 trấn. Dù không còn là “kinh đô” như thời chúa Nguyễn nhưng Sài Gòn vẫn giữ vai trò quan trọng trong hệ thống chính quyền triều Nguyễn, là đơn vị hành chính đặc biệt trong buổi đầu thống nhất quốc gia. Đặc biệt là vị trí của Gia Định thành trong mối quan hệ (quân sự - chính trị) với Xiêm và Chân Lạp.
Từ cuối thế kỷ XIX Paul Doumer đã nhận xét về Sài Gòn “Khó mà so sánh Hà Nội với Sài Gòn, hai thành phố này mang những nét khác nhau và sẽ chẳng bao giờ giống nhau được. Nhưng vào năm 1897, ấn tượng về sự khác nhau rõ nét nhất là Sài Gòn là một thành phố đã hình thành, ta chỉ việc hoàn thiện và làm đẹp cho nó, trong khi Hà Nội là một thành phố mới chỉ được phác họa, vẫn còn rất nhiều thứ phải làm” .
Có thể hiểu nguyên nhân của sự khác biệt này là Sài Gòn từ khi khởi lập đã có chức năng và duy trì được chức năng đô thị kinh tế, dù sau đó Thành Gia Định (thành Phụng, thành Quy) bị san bằng, vị trí chính trị mất đi thì vai trò kinh tế đã không mất theo. Ngược lại do tiếp nhận những phương thức và kỹ thuật mới nên Sài Gòn nhanh chóng phát triển theo một mô hình đô thị mới.
Đô thị hóa là quá trình biến đổi về phân bố các lực lượng sản xuất, bố trí dân cư, những vùng không phải đô thị trở thành đô thị. Tiền đề cơ bản của đô thị hóa là sự phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ... thu hút nhiều nhân lực từ nông thôn đến sinh sống và làm việc, làm cho tỉ trọng dân cư ở các đô thị tăng nhanh. Đô thị xuất hiện làm tăng sự phát triển giao thông với các vùng nông nghiệp xung quanh và các đô thị khác; phát triển văn hoá và sự phân công lao động theo lãnh thổ, tăng cường thành phần công nhân, tiểu thủ công, trí thức, thương nhân, kĩ thuật viên... Theo đó thì quá trình đô thị hóa ở Nam bộ khá đồng bộ và trong giai đoạn nào thì Sài Gòn vẫn giữ vị trí và vai trò quan trọng nhất.
3.2 Ở Nam bộ ít có sự phân biệt văn hóa và người Nam bộ nói chung (ngoại vi) với văn hóa và người Sài Gòn (trung tâm) nói riêng. Nếu không quá khắt khe có thể coi người/văn hóa Sài Gòn là đại diện cho người/ văn hóa Nam bộ, từ giọng nói, ngôn ngữ, ẩm thực, tính cách, cách thức làm ăn… Ở Sài Gòn khi thân thiết thì hỏi nhau “quê đâu” mà không hề có ý phân biệt người “tỉnh” hay “thành phố”.
Gia phả nhiều dòng họ, gia đình ở Nam bộ phần lớn được ghi nhận “thời ông cố ông sơ” từ miền Trung đi ghe theo biển vô Nam, đầu tiên định cư trên những giồng đất vùng cửa sông… rồi từ đó ngược các nhánh Cửu Long vào sâu vùng ngập trũng, khai phá đồng bằng và khai thác tự nhiên .
Công cuộc khai phá này chẳng hề dễ dàng thuận lợi chút nào! Do đó tính thực tiễn được đặt lên hàng đầu: tất cả hướng đến thực tế, không lý thuyết suông, không giáo điều, lấy hiệu quả lao động làm mục đích chính. Không hay than vãn, người Nam bộ thường nói “làm chơi ăn thiệt” nhưng đây là thể hiện tư duy giản dị mọi việc, “coi vậy mà hổng phải vậy”, nhìn khó khăn đã qua như một việc chơi chơi, còn kết quả thực sự mới là quan trọng, là đã “có ăn”.
Với hơn ba trăm năm đi xa “gốc gác” từ đồng bằng sông Hồng, sông Mã làm sợi dây “truyền thống” khép kín càng dãn ra. Những tính chất của không gian “nông thôn làng xã” biến đổi theo thời gian, bị/ được đứt gãy do phải thích ứng với không gian địa – xã hội khác. Thay vào đó là sự tự lập và tính linh hoạt ứng phó với hoàn cảnh điều kiện mới và từ đó tạo ra truyền thống mới, dám thay đổi cho phù hợp hoàn cảnh, thích nghi nhanh, chịu đổi mới. Quan trọng là không mặc cảm sợ sai và sửa sai nhanh.
Ở Sài Gòn/ Nam bộ “dư luận xã hội” không nặng nề khe khắt với những điều khác lạ, cái mới. Là bởi người Việt trên bước đường lưu chuyển vào đây đã trải nghiệm qua những vùng đất toàn những điều mới lạ. Cùng với sự nhạt đi của tính chất phong kiến gia trưởng, lại luôn cần đùm bọc nhau trong hoàn cảnh mới, tiếp xúc sớm với các giá trị dân chủ, bình đẳng của văn minh phương Tây làm cho người Sài Gòn khá cởi mở trong các mối quan hệ xã hội, cá nhân ít lệ thuộc, phụ thuộc vào cộng đồng và vì thế vai trò và trách nhiệm cá nhân rõ ràng.
Có thể nói tính cách người Sài Gòn/Nam bộ gắn liền với chữ “LÀM”; “làm ăn”, “Làm chơi ăn thiệt”, “làm đại”, “dám làm dám chịu”… sự liên kết gắn bó, hòa trộn những đặc điểm trên tạo nên tính cách người Sài Gòn/ Nam bộ.
Trong tiến trình lịch sử không thể phủ nhận một điều, với vị thế là thương cảng trung tâm kinh tế – văn hóa, có tầm giao lưu và ảnh hưởng đến khu vực rộng hơn, Sài Gòn luôn được coi là thành phố tiêu biểu và đại diện cho Nam bộ trên tất cả các lĩnh vực. Cũng cần lưu ý rằng, trong một thời gian dài Sài Gòn là thủ phủ của chính quyền thực dân và thủ đô của chính quyền miền Nam trước năm 1975, từng là một trung tâm chính trị. Những yếu tố trên đây hợp thành và tạo nên một đô thị cổ Bến Nghé – Gia Định, một đô thị Sài Gòn – TP.HCM độc đáo khác với Hà Nội hay Huế – hai thành phố cũng là trung tâm của cả nước trong giai đoạn lịch sử khác .
3.3 Thời hiện đại, quá trình dân cư của Sài Gòn cũng khác với nhiều đô thị khác: Thời kỳ chiến tranh Sài Gòn là nơi mà nhiều người từ các tỉnh miền Trung đổ vào, từ miền Tây Nam bộ lên, nhất là khi chiến sự ác liệt. Sau năm 1975 Sài Gòn cũng là nơi có tình trạng thay thế dân cư lớn nhất và kéo dài cho đến nay: Người (thị dân) Sài Gòn ra đi bằng nhiều con đường, lúc ồ ạt khi chẳng mấy ồn ào; người các tỉnh lại liên tục đổ vào Sài Gòn tới nay chưa hề giảm bớt (khác với Hà Nội trong chiến tranh dân cư rời bỏ thành phố đi về tản cư, sơ tán nông thôn, sau chiến tranh mới trở lại thành phố).
Tuy nhiên Hà Nội và Sài Gòn cũng có một số điểm giống nhau: 1/ Sau khi chiến tranh chấm dứt khá nhiều người Hà Nội “gốc” và Sài Gòn “xịn” đã rời thành phố đi nơi khác sinh sống, tạo ra khoảng trống trong cơ cấu dân cư là tầng lớp thị dân lâu đời; 2/ Chính quyền thiết lập sau chiến tranh (Hà Nội 1954 và Sài Gòn 1975) đều do (hầu hết) những người (kháng chiến) ở nông thôn, rừng núi trở về lãnh đạo, một giai đoạn dài tổ chức chính quyền không kịp thích nghi với đô thị lớn nhất nước và 3/ hiện nay hai thành phố này có số lượng người nhập cư nhiều nhất, phức tạp nhất.
Những đặc điểm này làm cho Hà Nội và Sài Gòn khó khăn trong việc xây dựng đô thị văn minh hiện đại. Đặc biệt, tình trạng đột biến dân cư nhanh, ồ ạt, sự đứt gãy ký ức cộng đồng của hai đô thị lớn nhất nước đã để lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực trong việc gìn giữ lối sống đô thị, bảo vệ và bảo tồn di sản đô thị.
Nam bộ được nhìn nhận có hai tiểu vùng trên cơ sở hai vùng địa hình: Đông Nam Bộ là lưu vực sông Đồng Nai và Tây Nam Bộ là lưu vực sông Cửu Long. Tuy nhiên về cộng đồng dân cư, về kinh tế và văn hóa giữa hai tiểu vùng khá giống nhau. Đây là điều tương đối khác so với miền Trung và miền Bắc. Trên cơ sở đó, Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh được coi là và luôn là đại diện cho Nam bộ. Chính vì vậy có thể coi những đặc trưng lịch sử - văn hóa của Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh cũng là những đặc trưng của nhiều đô thị ở Nam bộ. Nguồn vốn di sản đô thị ở TP. Hồ Chí Minh có những loại hình và giá trị thế nào thì các đô thị Nam bộ cũng có như vậy, tuy mức độ khác nhau.
Lời tạm kết
Hiện nay tại TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam bộ, ngoài hệ thống di tích Lịch sử văn hóa (phần lớn là cấp tỉnh thành) và các bảo tàng chưa được nhiều người biết đến thì chưa có chiến lược và chương trình cụ thể nhằm làm cho người dân và thế hệ trẻ hiểu biết nhiều hơn, đúng hơn về di sản văn hóa. Một vài chương trình truyền hình, chuyên mục trên một số tờ báo… chưa đủ sức mang lại sự yêu thích và khơi dậy ý thức bảo vệ di sản văn hóa. Mỗi khi có vụ việc phá hoại di sản thì báo chí lên tiếng rồi sau đó lại chìm vào lãng quên. Mặt khác các chương trình “xúc tiến quảng bá du lịch” còn nặng về “khai thác” mà chưa chú ý làm cách nào tăng thêm giá trị cho di sản văn hóa.
Nói về bản sắc đô thị Sài Gòn – Nam bộ là góp phần khẳng định: Nam bộ - Sài Gòn không chỉ có vai trò “cùng cả nước vì cả nước” về kinh tế mà di sản văn hóa của vùng đất này đã đóng góp những giá trị quan trọng đối với lịch sử - văn hóa Việt Nam. Mặt khác, bảo tồn di sản còn là nuôi dưỡng ký ức và tình cảm đối với thành phố, với quê hương, vì vậy, bảo tồn di sản đô thị Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh và các đô thị Nam bộ còn góp phần vào tiến trình hòa hợp hòa giải dân tộc.
[Trích từ một bài viết dài với 10 tài liệu tham khảo, trích dẫn.]


CÔNG, TỘI PHÂN MINH

 

Ý kiến của Cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong buổi Toạ đàm về nhân vật lịch sử Lê Văn Duyệt. Sau đó được in làm Lời bạt trong cuốn sách LÊ VĂN DUYỆT VỚI VÙNG ĐẤT NAM BỘ, Nxb Trẻ, 2002.
———-
Trước hết, tôi xin cám ơn Tạp chí Xưa & Nay của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Hội đồng Khoa học Thành phố đã mời tôi dự cuộc tọa đàm. Tôi tới dự không phải với cương vị Cố vấn BCH Trung ương mà với tư cách một người có đọc một số ít các tác phẩm về Lê Văn Duyệt muốn được nghe, được hiểu thêm về nhân vật này.
Tôi biết còn những đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về không ít nhân vật lịch sử, trong đó có trường hợp Lê Văn Duyệt. Tôi cho rằng, đánh giá, sử dụng những sự kiện lịch sử như thế nào là thuộc trách nhiệm của các nhà lãnh đạo chính trị, nhưng đối với các nhà sử học thì tính chân thực của lịch sử là quan trọng. Đối với những nhân vật như Lê Văn Duyệt thì những cuộc tọa đàm hẹp để có thể làm rõ công, tội một cách có cơ sở khoa học và đủ thuyết phục là nên làm.
Tôi cũng cho rằng, không đơn giản chỉ một cuộc tọa đàm như thế này là đã có thể giải quyết được những vấn đề còn ý kiến khác nhau từ nhiều năm, thậm chí từ hàng trăm năm nay về Lê Văn Duyệt. Tuy nhiên, qua những cuộc tọa đàm như vậy, chúng ta sẽ có thêm cơ sở, điều kiện và cả độ chín để nhìn nhận vấn đề cho khách quan, khoa học.
Suốt ngày hôm nay, tôi đã chú ý lắng nghe các tham luận với các chủ đề khác nhau và qua đó, tôi thấy mình biết thêm nhiều điều về nhân vật này. Là một người đã tham gia hoạt động chính trị nhiều năm và có một thời gian ngắn tham gia quản lý nhà nước, qua những gì được nghe hôm nay kết hợp với những gì được đọc trước đây, tôi thấy tư duy và ứng xử của Lê Văn Duyệt có nhiều điểm ở tầm quốc sách và có những mặt khá gần gũi so với một số chủ trương của chúng ta trong thời kỳ đổi mới.
Tôi muốn phát biểu một vài ý kiến ngắn, đúng hơn là muốn nêu lại một số vấn đề mà các tham luận đã phân tích, để các nhà chuyên môn tiếp tục làm rõ, về những mặt theo tôi là tích cực và rất đáng suy ngẫm về nhân vật Lê Văn Duyệt. Đương nhiên là Lê Văn Duyệt không chỉ có những mặt tích cực. Những tiêu cực của Lê Văn Duyệt có thể không nhỏ, tôi tin rằng các nhà nghiên cứu sử học sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn.
. Về chính trị:
- Lê Văn Duyệt có tầm nhìn chiến lược về vấn đề dân tộc, nhờ đó đã quy tụ được các dân tộc đa số cũng như thiểu số, kể cả người Hoa. Lê Văn Duyệt cũng chủ trương tự do tín ngưỡng, đoàn kết lương giáo. Chính sách dân tộc, tôn giáo đó là một trong những điều kiện cơ bản giúp
Lê Văn Duyệt giữ được ổn định xã hội, chính trị ở trấn Gia Định và góp phần giữ yên bờ cõi đất nước, quan hệ hữu hảo với các nước láng giềng.
- Lê Văn Duyệt biết lấy an dân, cả về tinh thần lẫn vật chất, để gây dựng lòng tin. Nhờ đó, dân trong trấn, dù là dân tộc, tôn giáo nào, cũng coi vị Tổng trấn Lê Văn Duyệt là chỗ dựa. Trong cai trị, Lê Văn Duyệt thẳng tay trừng trị quan tham, cho dù là hoàng thân quốc thích(chém đầu Phó Tổng trấn Huỳnh Công Lý, cha vợ của vua Minh Mạng) đồng thời trọng dụng người thanh liêm, có tài vào đúng nơi, đúng việc (như giao cho Thoại Ngọc Hầu coi giữ vùng biên giới với Cao Miên và đào kênh Vĩnh Tế). Việc dân gọi lăng Lê Văn Duyệt là “Lăng Ông”phần nào thể hiện cái Uy, cái Ân của Lê Văn Duyệt.
- Về đối ngoại, Lê Văn Duyệt giữ quan hệ thân thiện đúng mức với hai nước láng giềng (Vạn Tượng và Cao Miên tức Lào và Campuchia) và xác định đó là cách giữ ổn định “phên dậu” phía tây của nước ta. Kênh Vĩnh Tế ngoài ý nghĩa kinh tế, quân sự thì về mặt chính trị đối ngoại cũng xác định rõ trách nhiệm biên giới với Cao Miên. Hiểu ý đồ dòm ngó Vạn Tượng, Cao Miên và nước ta của Xiêm La, Lê Văn Duyệt thực hiện chính sách ngoại giao hữu hảo và cũng có tính răn đe. Đặc biệt là chủ trương mở cửa, thông thương với thế giới bên ngoài, giao
lưu với một số nước phương Tây của Lê Văn Duyệt vào lúc bấy giờ là rất mới, táo bạo và tự tin.
. Về kinh tế:
- Lê Văn Duyệt khuyến khích mọi người dân (kể cả lưu dân, dân binh và phạm nhân) khai hoang lập ấp, tổ chức sản xuất quy mô dinh điền.
- Trong bối cảnh triều đình chủ trương đóng kín, bế quan tỏa cảng, Lê Văn Duyệt đã chủ trương mở cửa, thông thương với bên ngoài. Nhờ vậy, cảng Bến Nghé trở thành trung tâm buôn bán sầm uất, góp phần làm kinh tế phía Nam phát triển hơn.
- Lê Văn Duyệt cũng cho xây các công trình kinh tế có quy mô lâu dài như kênh Vĩnh Tế. Đây là một công trình quốc phòng kết hợp với kinh tế (giao thông, thủy lợi) có tầm chiến lược mà tới nay vẫn tiếp tục phát huy tác dụng trong hệ thống thủy lợi, thoát lũ ở đồng bằng sông Cửu Long.
. Về quân sự, quốc phòng:
- Lê Văn Duyệt là một tướng có tài thao lược bẩm sinh và cuộc đời binh nghiệp nhiều chiến tích. Uy danh của Lê Văn Duyệt làm cho những kẻ có ý đồ lăm le xâm lược cũng như những nhóm chống đối từ bên trong phải kiêng dè.
- Trong các cuộc tiễu trừ, dẹp loạn bên trong, Lê Văn Duyệt sử dụng nghệ thuật cảm hóa, đánh vào lòng người kết hợp với sức mạnh quân sự. Về mặt này, Lê Văn Duyệt có mức khác hơn so với Nguyễn Công Trứ. Cùng với chủ trương an dân, đoàn kết các dân tộc, tôn giáo... như nói ở phần trên, có thể coi Lê Văn Duyệt rất chú trọng môi quan hệ quân – dân.
- Đối với việc giữ gìn bờ cõi, mà đối thủ lúc bấy giờ là Xiêm La, Lê Văn Duyệt một mặt chú trọng phòng thủ chắc chắn, mặt khác cũng sẵn sàng chủ động tấn công trong trường hợp cần thiết (tương tự như Lý Thường Kiệt đã làm đối với quân Tống). Công trình kênh Vĩnh Tế thể hiện rất rõ tư duy chiến lược quân sự đó.
Nếu những điều nói ở trên là đúng với sự thật lịch sử thì có thể nói Lê Văn Duyệt là một tài năng lớn về chính trị, kinh tế, quân sự và trong các tư duy chiến lược của Lê Văn Duyệt có sự kế thừa từ các anh hùng dân tộc trước đó. Điều đó, nếu là có thật, nên được đánh giá cho khách quan và không xóa sạch những công lao, đóng góp của ông với vùng đất phía Nam, với nước ta trong giai đoạn lịch sử đó. Tương tự những tội lớn của triều Nguyễn đối với dân tộc không xóa sạch công lao mở cõi để nước ta kéo dài tới Mũi Cà Mau.
Công, tội phân minh cũng là quan điểm của Đảng ta về các vấn đề lịch sử.
————
(Bài và hình ảnh do ông Nguyễn Hạnh, Phó TBT tạp chí Xưa & Nay cung cấp)

Cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt cùng đại biểu tọa đàm khoa học viếng Lăng Ông Lê Văn Duyệt




Cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt thắp nhang viếng Đức tả quân Lê Văn Duyệt


Cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt và NNC. Trần Bạch Đằng


Cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt phát biểu tại cuộc Toạ đàm về nhân vật LÊ VĂN DUYỆT do Tạp chí Xưa & Nay tổ chức, tháng 10/2000.


Cuốn sách do Tạp chí Xưa & nay và NXB Trẻ ấn hành năm 2000, đã đuợc tái bản 3 lần. Sách tập hợp 32 bài viết và tham luận của các GS, TS, các học giả, nhà sử học nổi tiếng trong buổi tọa đàm về Tả quân Lê Văn Duyệt. Phát biểu của Cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong Tọa đàm là Lời bạt in cuối sách.



Kỷ yếu Hội thảo khoa học về Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn tổ chức tại Thanh Hóa năm 2008 tại link này, có thể tải xuống để lưu và tham khảo:

https://drive.google.com/drive/u/0/folders/10F-hmgLIntLeUIxfDM4QOx0YapO22js6?fbclid=IwY2xjawNpFnZleHRuA2FlbQIxMABicmlkETFmMGRGMEVVU0hJVFAyYU42AR6y27OEguD-RqCwmymO5VIQd1WJ2ceWn0co8Rsyj_mXLNZinvpaXJCuAUQawQ_aem_fUWx6BL6s2cYOxBNlkZw8A

Tượng đài tưởng niệm nạn nhân COVID-19: Nhớ quá khứ, bài học hiện tại, hướng về tương lai

https://tuoitre.vn/tuong-dai-tuong-niem-nan-nhan-covid-19-nho-qua-khu-bai-hoc-hien-tai-huong-ve-tuong-lai-20251021224045624.htm?fbclid=IwY2xjawNlcn5leHRuA2FlbQIxMQABHsyDWKuHwYTT1JHRGcKOg4AA8osnNNv2UodNN1oP6udePNDCQp0vVl59-26__aem_qkLy9pT-WdmdseHhcKZoHg

Mất mát từ đại dịch ở TP.HCM cần có vị trí tưởng niệm

Trong đại dịch Covid-19 ở TP.HCM đã có 23.000 đồng bào, cán bộ, chiến sĩ hi sinh, tử vong. Nay Thành ủy TP.HCM có chủ trương sẽ xây dựng một công trình tượng đài tưởng niệm đã nhận được nhiều tình cảm quan tâm của người dân TP.

Mới đây tại Hội nghị tổng kết 50 năm văn học- nghệ thuật TP.HCM, Bí Thư Thành ủy TP.HCM Trần Lưu Quang đã thông tin về chủ trương biến khu đất số 1 Lý Thái Tổ (phường Vườn Lài) thành công viên, trong đó có bố trí tượng đài tưởng niệm đồng bào, cán bộ, chiến sĩ hi sinh, tử vong vì đại dịch Covid-19. 

Chủ trương của lãnh đạo TP đã chạm đến tình cảm của người dân TP về một trang sử đau thương của TP. Tuổi Trẻ trao đổi với Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu xung quanh về ý tưởng làm tượng đài tưởng niệm này.

Cần công trình tưởng niệm xứng đáng

Bà đánh giá thế nào về chủ trương của về việc xây dựng tượng đài tưởng niệm nạn nhân Covid-19 ở TP.HCM ?

Đại dịch Covid-19 là đại nạn của TP.HCM cũng như cả nước và thế giới. Có thể nói tổn thất từ đại dịch là rất lớn sau chiến tranh xảy ra ở nước ta và thế giới. Mất mát từ đại dịch kéo dài 2 năm này là hàng chục nghìn nhân mạng tử vong, hi sinh. Chưa kể là các thiệt hại về kinh tế, chấn thương tâm lý lâu dài cho những người còn lại. Nhất là hàng nghìn trẻ em mồ côi. Đây là sự mất mát không dễ nguôi ngoai. Những ai đã trải qua những ngày đại dịch, dù có thiệt hại trực tiếp hay không thì cũng không thể quên được.

Và sự kiện này rất đáng để nhớ đến. Việc nhớ đến không phải là kéo dài nỗi đau thương. Bởi sự kiện này còn là bài học lịch sử trong thời bình mà thế hệ sau cần biết, cần được giáo dục. Đến nay TP có chủ trương làm tượng đài tưởng niệm về những người đã hi sinh, tử vong cũng như những sự kiện từ đại dịch thì công trình này là rất cần thiết. Tương tự như ở Nhật có các công trình tưởng niệm nạn nhân sóng thần hay Trung Quốc có công trình tưởng niệm nạn nhân của trận động đất ở Đường Sơn năm 1976.

Bản thân là một người dân TP tôi rất mừng và cảm động với thông tin làm công trình tưởng niệm. Chủ trương này chạm được đến rất sâu tình cảm của người dân TP. Bởi tính cách của người dân Nam bộ không hay than thở, không muốn nhắc nhiều về chuyện cũ, sau đại dịch là nhanh chóng gượng dậy, phục hồi đời sống, phát triển kinh tế. Nhưng rõ ràng không ai quên những mất mát đau thương trong đại dịch.

Và tôi tin rằng rất nhiều người dân TP cũng mong muốn, cùng suy nghĩ như tôi.



Như vậy theo bà, những tổn thất nhân mạng từ đại dịch, dù là trang sử đau thương nhưng xứng đáng có một công trình, vị trí tưởng niệm ở TP?

Đúng vậy, rất xứng đáng. TP từ lâu đã tổng kết đưa vào tầm nhìn phát triển đặc điểm « nghĩa tình » bên cạnh các mục tiêu « văn minh, hiện đạị »…

Rất nhiều đồng bào, cán bộ, chiến sĩ hi sinh, tử vong rất đáng tôn vinh. Họ là những người đã có những đóng góp vào sự phát triển của TP. Sự hy sinh trong thời bình cũng cần được tôn vinh, nhất là đối với những người dân bình thường lại càng cần thiết, bởi họ làm nên sức sống của một trung tâm kinh tế như TP.HCM.

Nghĩa tình của người dân TP trong đại dịch thể hiện từ sự đùm bọc, sẻ chia với nhau, giữa người dân TP với vùng miền khác, nghĩa tình đồng lòng với lãnh đạo TP vượt qua đại dịch, phục hồi kinh tế. Vì vậy, công trình tưởng niệm để ghi ơn, tri ân người dân đã mất, hi sinh là một nghĩa cử chạm được đến cảm xúc của người dân.

Tượng đài cần gần gũi, chạm cảm xúc người dân  

Theo bà chưa nói đến hình khối, màu sắc, vật liệu cụ thể của tượng đài tưởng niệm thì bà mong muốn công trình đó thể hiện được những đặc điểm, tính chất thế nào từ cuộc chiến chống đại dịch ở TP ?

Như đã nói mất mát từ đại dịch là không gì có thể đong đếm được với không chỉ người dân mà cả chính quyền TP. Bởi lẽ tôi tin rằng lãnh đạo Trung ương và TP  đã chịu không ít áp lực, trăn trở, day dứt trong các quyết sách chống dịch mà từng giây, từng giờ là sự mất mát thêm nhân mạng.

Nhớ đến đại dịch chúng ta sẽ nhớ đến sự mất mát về sức khỏe, nhân mạng của người thân, gia đình, hành xóm, bạn bè, những đồng bào cả nước. Chúng ta sẽ nhớ đến lực lượng y bác sĩ, cán bộ, chiến sĩ hi sinh trong đại dịch ; nhớ đến những người ở TP đã sẻ chia với những người không thể sống nổi ở TP phải bỏ về quê…Tất cả cả những điều đó tạo thành bức tranh quá nhiều ý nghĩa.

Thế nhưng trên tất cả những mất mát thì khi nhớ về đại dịch thì chúng ta nhớ về đặc trưng quan trọng của người Sài Gòn. Đó là tình nghĩa, là hành động ngay và luôn, giúp được gì là giúp. Không phải chỉ những hành động anh hùng thì mới đáng tôn vinh mà những nghĩa cử thầm lặng, chia sẻ vô tư vẫn rất đáng trân trọng. Nó bắt đầu từ thùng nước trà đá miễn phí, vài ổ bánh mì, vài hộp cơm treo ven đường… Trong đại dịch thì đó là bó rau, viên thuốc, chia sẻ bình oxy, ATM gạo…

Vì vậy tôi rất mong công trình tưởng niệm sẽ khắc họa, thể hiện được tính cách đó, để người dân thành phố sẽ thấy mình trong đó, thấy những câu chuyện thuộc về mình. Về quy mô tượng đài chắc sẽ được tính toán cụ thể, nhưng theo tôi  cần làm càng giản dị, tiết kiệm, càng thực chất thì càng đi vào lòng dân. Tránh xây dựng một công trình phô trương hào nhoáng sẽ làm lu mờ cái tâm của những người còn sống với người đã mất, xoá nhoà ý nghĩa của tượng đài.

Với mong muốn đấy nên chăng TP nên tổ chức lấy ý kiến rộng rãi từ người dân về công trình tượng đài tưởng niệm ?

Tôi nghĩ công trình tượng đài, tưởng niệm có ý nghĩa lớn như thế này thì rất cần sự hiến kế, hiến ý tưởng từ người dân để nhận được sự đồng thuận, bảo đảm công trình thể hiện được tình cảm và ý chí của chính quyền và nhân dân.

Theo bà việc tổ chức tượng đài tưởng niệm ở khu đất số 1 Lý Thái Tổ dự kiến làm công viên sẽ thuận lợi như thế nào ? Và TP cần làm gì với các công trình tại đây ?

Công trình tượng đài tưởng niệm gắn với một công viên là rất phù hợp. Người dân đến công viên vừa để trở về với thiên nhiên, tận hưởng không gian xanh, lại có thêm công trình tưởng niệm mang tính tâm linh gắn với sự kiện lịch sử đau thương của TP, vừa mang tính giáo dục cho thế hệ trẻ.

Tại khu đất trên hiện có 7 biệt thự cổ rất phù hợp để bảo tồn, chuyển đổi công năng thành cơ sở văn hóa, làm nơi cho giới trẻ đến tổ chức các hoạt động văn hóa, trình diễn chương trình ca nhạc dân tộc, trưng bày tác phẩm nghệ thuật… Gần vị trí tượng đài tưởng niệm thì nên sử dụng 1, 2 biệt thự làm nơi trưng bày hình ảnh, kỉ vật… về đại dịch covid -19. Nơi trưng bày này cần thể hiện được tinh thần chia sẻ, đùm bọc, nghĩa tình, là hành động vượt lên phục hồi đời sống, khắc phục khó khăn phát triển kinh tế sau đại dịch.

Khu đất số 1 Lý Thái Tổ có giá trị lịch sử, gắn với kí ức của người dân TP nhưng có thể nói là từ nhiều năm nay trở nên xa lạ, không thân thuộc với người dân TP, lãng phí do cách quản lý và sử dụng… Nay tổ chức khu đất này thành không gian công viên cây xanh – hoạt động văn hoá sẽ góp phần nâng cao đời sống tinh thần của người dân. Tại đây người dân được thụ hưởng không khí trong lành, cảnh quan đẹp đẽ, tham gia các hoạt động văn hoá, tham quan khu vực tưởng niệm để được nhắc nhớ về câu chuyện của gia đình mình, của TP mình trong đại dịch. Khu đất này vì thế sẽ trở thành một công trình văn hoá mang nhiều giá trị và ý nghĩa.

Ái Nhân - BÁO TUỔI TRẺ NGÀY 22/10/25



 


 

 


THÊM KHÔNG GIAN VĂN HÓA CHO THÀNH PHỐ

 https://tuoitre.vn/hien-trang-khu-dat-ben-nha-rong-va-nha-khach-chinh-phu-se-lam-cong-vien-20251019164251947.htm

"Chủ trương của Thường trực Thành ủy TP.HCM sẽ ưu tiên sử dụng khu đất Bến Nhà Rồng và khu đất Nhà khách Chính phủ hoang hóa nhiều năm làm công viên và công trình thiết chế văn hóa nghệ thuật. Bí thư Thành ủy TP.HCM Trần Lưu Quang đã thông tin về chủ trương tổ chức Không gian văn hóa Hồ Chí Minh tại khu vực Bến Nhà Rồng, và sử dụng khu đất Nhà khách Chính phủ tại số 1 Lý Thái Tổ làm công viên tại Hội nghị tổng kết 50 năm văn học - nghệ thuật TP.HCM tổ chức ngày 18-10".

Nhân thông tin mới này, mình đăng lại bài viết trên báo Tuổi trẻ hồi tháng 10/2019 cũng về chủ đề này

SÔNG SÀI GÒN - NGUỒN LỢI CHO AI?

Nguyễn Thị Hậu

Sài Gòn – một đô thị sông nước với sông Sài Gòn, rạch Bến Nghé  là “xương sống” dựng nên thành phố hai bên bờ với trung tâm hành chính, thương mại, dịch vụ phía quận 1, quận 5; trung tâm công nghiệp chế biến, cảng thị… phía quận 4 quận 8. Nay do sự phát triển thành phố và nhu cầu cải tạo môi trường nên nhiều cơ sở công nghiệp đã di dời, không gian đôi bờ sông trở thành “mảnh đất vàng” đối với các nhà đầu tư.

Việc xây dựng những chung cư cao cấp, khách sạn và trung tâm thương mại cao cấp là không thể thiếu đối với một thành phố hiện đại. Tuy nhiên, hai bên bờ sông cần được dành một diện tích thích đáng cho không gian công cộng, đồng thời quy hoạch các công trình lớn có khoảng lùi thích hợp với bờ sông sẽ làm tăng giá trị khu vực gần cũng như xa hơn bờ sông. Quan trọng hơn, không gian dành cho cộng đồng tạo ra sự thân thiện của một thành phố hiện đại với chính dân cư của nó chứ không chỉ là vẻ đẹp dành cho du khách hay tiện nghi cho một bộ phận dân cư khá giả.

Điều này ở TP.HCM không khó để thực hiện, bởi vì phần lớn đất đất đai bên bờ sông Sài Gòn thuộc quyền quản lý của nhà nước. Quy hoạch với mục đích nào, tỷ lệ bao nhiêu… hoàn toàn phụ thuộc vào tầm nhìn và ý chí của chính quyền đô thị. Vấn đề còn lại là việc xác định: đô thị , gồm không gian cảnh quan, di sản văn hóa, môi trường tự nhiên… là của cộng đồng dân cư – có quyền lợi và trách nhiệm với nguồn vốn xã hội này cho phát triển bền vững; hay chỉ là nguồn lợi trước mắt của các nhà đầu tư địa ốc và một bộ phận rất nhỏ trong công đồng.

Nhữnng con sông chảy qua thành phố được coi  là một lợi thế về cảnh quan tự nhiên, bên cạnh lợi thế về giao thông và môi trường. Sông qua thành phố tạo nên diện mạo của thành phố. Nhiều đô thị hình thành bên bờ sông quan trọng của một vùng, con sông như đường giao thông kết nối đô thị với những vùng xung quanh và là “điểm nhấn” trong quy hoạch đô thị bởi vì nơi đó là không gian công cộng: công viên, khu dịch vụ vui chơi giải trí, không gian nghệ thuật đương đại (trưng bày các tác phẩm điêu khắc, nghệ thuật sắp đặt), không gian lễ hội... Công trình được ưu tiên xây dựng là những cây cầu như những “chứng nhân” lịch sử thành phố: quá trình mở rộng, nhu cầu giao thông của dân cư, kỹ thuật xây dựng, nghệ thuật và kiến trúc... Những cây cầu có khi còn trở thành biểu tượng của thành phố, chúng đẹp hơn là nhờ khoảng không gian thoáng đãng hai bên bờ. Điều này Đà Nẵng đã làm rất tốt với sông Hàn, trong khi đó đã nhiều năm qua TP.HCM không có cầu mới bắc qua sông Sài Gòn.

Quy hoạch bờ sông tốt sẽ góp phần nâng cao giá trị của cảnh quan nhân văn từ cảnh quan tự nhiên. Làm đẹp hơn cho cảnh quan này và tạo điều kiện cho mọi người được hưởng thụ giá trị văn hóa ở đôi bờ sông, đó là trách nhiệm của chính quyền. Lịch sử phát triển của Sài Gòn – TP.HCM đã gắn liền với sông Sài Gòn và đây là một ưu thế trời phú không phải thành phố nào cũng có được. Vấn đề là theo thời gian, chính quyền có biết cách tận dụng ưu thế đó hay không. Câu trả lời và hành động như thế nào thuộc về chính quyền và nhà quản lý rồi đây sẽ lưu dấu cho thế hệ mai sau.

https://tuoitre.vn/song-sai-gon-nguon-loi-cho-ai-20190910234814227.htm



Di sản khảo cổ - đô thị TP. HCM

  TP. Hồ Chí Minh – đô thị năng động bậc nhất Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn trong việc cân bằng giữa phát triển kinh tế – xã hội v...