BẢN SẮC ĐÔ THỊ SÀI GÒN TRONG BỐI CẢNH NAM BỘ (trích phần đầu và cuối của một bài dài)

Nguyễn thị Hậu

Lời mở
Nam bộ nói chung và vùng đất Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh nói riêng vẫn thường được gọi là “vùng đất mới”, “vùng đất có 300 năm lịch sử”. Không thể phủ nhận vai trò của lưu dân khai khẩn trong giai đoạn từ thế kỷ XVII, XVIII trở đi, tuy nhiên khoa học lịch sử và khảo cổ học cũng đã cho biết, nơi này từng có 1000 năm trước công nguyên với những cộng đồng dân cư thời tiền sử của văn hóa khảo cổ Đồng Nai, rồi từ đầu Công nguyên có nền văn minh Óc Eo của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ I đến thế kỷ VII. Do đó Nam bộ là “vùng đất mới” đối với những lớp người đến đây trong các giai đoạn về sau, còn bản thân nơi này có một quá trình lịch sử lâu dài, đa dạng về tộc người và văn hóa.
Cái nhìn về Nam bộ như một “vùng đất mới” tồn tại khá bền chặt trong giới nghiên cứu lịch sử và tư duy quản lý nhà nước, có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội và cũng để lại hệ lụy trong việc cố gắng bảo tồn di sản và bản sắc văn hóa Sài Gòn – Nam bộ. Bởi vì với quan niệm vùng đất Nam bộ - Sài Gòn là “muộn”, là “mới”, lại liên quan khá nhiều đến thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn – vốn bị định kiến trong lịch sử - nên đã dẫn tới tâm lý không coi trọng những giá trị văn hóa (vật thể và phi vật thể) độc đáo, hình thành và tồn tại lâu bền ở đây. Đến nay, những di tích “Sài Gòn trăm năm” bị phá hủy gần hết do quá trình đô thị hóa qua nhiều thời kỳ, cũng như do nhận thức thiếu sót của chính quyền về giá trị của những di sản này từ sau khi đất nước hòa bình vào năm 1975.
Vì vậy, tìm hiểu những đặc điểm về lịch sử - văn hóa một thành phố, một vùng đất chính là cách thiết thực giữ gìn di sản, trước hết vì đấy là tài sản văn hóa của cộng đồng. Giữ gìn di sản trước hết vì “người sống” chứ không phải chỉ vì bản thân di sản. Việc cố gắng bảo tồn những di tích lịch sử văn hóa của TP. Hồ Chí Minh hay các tỉnh Nam bộ là nhằm xây dựng xã hội hiện đại với không gian sống có chiều sâu ký ức. Sống trong không – thời gian đó con người sẽ giàu có hơn về mặt tinh thần. Bảo vệ di sản văn hóa là để con người sống tốt hơn cho hôm nay chứ không chỉ là bảo vệ một ý niệm nào đó của quá khứ dù đẹp đến đâu.
I. Vị thế địa – kinh tế - văn hóa của các đô thị Nam bộ
1.1 Dưới triều Nguyễn. Năm 1808, vua Gia Long nhà Nguyễn đổi trấn Gia Định thành Gia Định Thành, bao gồm 5 trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh Thanh (sau chia ra Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường (sau này là Định Tường) và Hà Tiên.
Năm 1834 Vua Minh Mạng đặt ra Nam Kỳ và chia thành 6 tỉnh nên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh. Đó là các tỉnh: Phiên An, năm 1836 đổi thành Gia Định (tỉnh lỵ là tỉnh thành Sài Gòn), Biên Hòa (tỉnh lỵ là tỉnh thành Biên Hòa), Định Tường (tỉnh lỵ là tỉnh thành Mỹ Tho) ở miền Đông; Vĩnh Long (tỉnh lỵ là tỉnh thành Vĩnh Long), An Giang (tỉnh lỵ là tỉnh thành Châu Đốc) và Hà Tiên (tỉnh lỵ là tỉnh thành Hà Tiên) ở miền Tây.
Từ cuối thế kỷ XVII, năm 1698 chúa Nguyễn đã “lập phủ Gia Định, dựng dinh Trấn Biên” thiết lập thôn xã phường ấp, khuyến khích dân cư khai khẩn đất hoang, định tô thuế, lập sổ đinh. Trước đó năm 1679 đã có những nhóm người Hoa “bài Thanh phục Minh” được chúa Nguyễn cho vào cư trú ở vùng đất phương Nam. Với kinh nghiệm và truyền thống buôn bán lâu đời, những người Hoa “tỵ nạn chính trị” này đã lập phố xá buôn bán và hoạt động thủ công nghiệp.
Gia định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức vào khoảng năm 1820 đã cho biết các trấn thời Nguyễn ở Nam bộ vào đầu thế kỷ XIX đã là những trung tâm kinh tế sầm uất, cùng thành trì là trung tâm hành chính thì nhà cửa phố xá bến chợ luôn được nhắc đến như một thành phần quan trọng của một trấn. Sau đây là vài miêu tả trong phần Thành trì chí.
Trấn Phiên An có Chợ phố Bến trước thành, phố chợ, nhà cửa rất trù mật... tụ tập hàng trăn thứ hàng hóa, dọc bến sống thuyền buôn lớn nhỏ đi lại san sát . Phố Sài Gòn (Chợ Lớn) đường phố lớn, thẳng suốt ba đường giáp đến bến sông... đan xuyên nhau như chữ điền, phố xá liền mái, người Việt và người Trung quốc cùng sinh sống... Hai bên nam - bắc bến sông không thứ gì là không có ; Ngoài ra còn có các chợ khác cũng nổi tiếng như Chợ Khung Dong (chợ cây da còm), Chợ Điều Khiển, phố chợ Lịch Tân (chợ Bến Sỏi), chợ Tân Kiểng...
Trấn Biên Hòa có phố lớn Nông Nại – cù lao Đại Phố. mái ngói tường vôi, lầu quán cao ngất, dòng sông rực rỡ, ánh nhật huy hoàng, liền nhau tới 5 dặm, chia làm 3 đường phố, đường phố lớn lát đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lót đá xanh, toàn thể đường bằng phẳng như đá mài, kẻ buôn tụ tập, thuyền đi biển, đi sông đều đến cuốn buồm neo đậu, đầu đuôi thuyền đậu kế tiếp nhau, thật là một chỗ đô hội…
Trấn Định Tường có chợ và phố lớn Mỹ Tho, mái ngói cột chạm phủ, đình cao, nha thự rộng, thuyền bè sông biển ra vào, buồm thuyền trông như mắc cửi, thật là nơi đô hội lớn phồn hoa huyên náo .
Trấn Vĩnh Thanh có chợ Vĩnh Thanh, chợ Long Hồ phố xá liền nhau hàng hóa cả trăm món, dài đến 5 dặm ghe thuyền đầu suốt bến, miếu thần, đình làng mọc lên, đờn ca náo nhiệt, là chợ phố lớn của trấn. Chợ Sa Đéc: phố chợ nằm dọc theo bờ sông, mái nối mái liền nhau đối nhau san sát như vảy cá... trên bờ dưới sông có hàng trăm thứ hàng hóa tốt đẹp, nhìn ngợp mắt thỏa lòng, quả là chốn phồn hoa .
Trấn Hà Tiên: đường xá giao nhau, phố xá nối liền. Người Việt người Hoa người Cao Miên người Chà Và tụ họp chia ở, thuyền biển ghe sông qua lại như mắc cửi, thất là nơi đô hội góc biển vậy .
Giai đoạn Chúa Nguyễn mở mang vùng đất Nam bộ cũng là giai đoạn họat động ngọai thương ở khu vực Đông Nam Á khởi sắc. Ngòai thương cảng Hội An nổi tiếng từ thế kỷ XVI, các trung tâm thương nghiệp mới như Cù Lao Phố (Biên Hòa, Đồng Nai), Mỹ Tho, Hà Tiên... cũng phát triển nhờ lợi thế của hệ thống giao thông đường thủy (cảng biển, sông rạch...). Từ năm 1790 Thành Gia Định từ một trung tâm chính trị mau chóng trở thành thương cảng lớn của Đàng Trong và trong khu vực Đông Nam Á.
Đến thời nhà Nguyễn, Gia Định thành là một đô thị có vai trò sánh ngang Thăng Long và Phú Xuân, nhưng khác với Thăng Long và Phú Xuân vai trò chủ yếu là trung tâm chính trị, Sài Gòn – Gia Định được nhìn nhận vai trò kinh tế quan trọng (thương nghiệp, thủ công nghiệp) bên cạnh vai trò trung tâm chính trị - văn hóa của Đàng Trong: thành phố này đã hình thành theo quy luật của các đô thị tiền tư bản, tức yếu tố “thị” có trước rồi phát triển thành yếu tố “thành” chứ không phải như các đô thị phong kiến ở đó yếu tố “thành” có trước rồi mở rộng thêm yếu tố “thị” .
...
III. Bản sắc Sài Gỏn - Bản sắc Nam bộ
3.1 Trong quan niệm và ngôn ngữ của người dân đồng bằng sông Cửu Long, “thành phố” gần như một danh từ riêng để chỉ Sài Gòn dù miền Tây có nhiều đô thị sầm uất, như Cần Thơ – “Tây đô”, như Long Xuyên – thành phố bên bờ sông Hậu, như Mỹ Tho bên sông Tiền – một “đại phố” từ thủa mới hình thành… Điều đó có hoàn cảnh lịch sử của nó.
Như đã nói ở trên, từ đầu thế kỷ XIX vùng Gia Định gồm 5 trấn là Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Sự trù phú về tự nhiên và phát đạt về kinh tế của năm trấn này được Gia Định thành thông chí miêu tả và liệt kê đầy đủ. Trấn Phiên An (vùng Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định) là trung tâm của Gia Định và là đơn vị hành chính thống quản 5 trấn. Dù không còn là “kinh đô” như thời chúa Nguyễn nhưng Sài Gòn vẫn giữ vai trò quan trọng trong hệ thống chính quyền triều Nguyễn, là đơn vị hành chính đặc biệt trong buổi đầu thống nhất quốc gia. Đặc biệt là vị trí của Gia Định thành trong mối quan hệ (quân sự - chính trị) với Xiêm và Chân Lạp.
Từ cuối thế kỷ XIX Paul Doumer đã nhận xét về Sài Gòn “Khó mà so sánh Hà Nội với Sài Gòn, hai thành phố này mang những nét khác nhau và sẽ chẳng bao giờ giống nhau được. Nhưng vào năm 1897, ấn tượng về sự khác nhau rõ nét nhất là Sài Gòn là một thành phố đã hình thành, ta chỉ việc hoàn thiện và làm đẹp cho nó, trong khi Hà Nội là một thành phố mới chỉ được phác họa, vẫn còn rất nhiều thứ phải làm” .
Có thể hiểu nguyên nhân của sự khác biệt này là Sài Gòn từ khi khởi lập đã có chức năng và duy trì được chức năng đô thị kinh tế, dù sau đó Thành Gia Định (thành Phụng, thành Quy) bị san bằng, vị trí chính trị mất đi thì vai trò kinh tế đã không mất theo. Ngược lại do tiếp nhận những phương thức và kỹ thuật mới nên Sài Gòn nhanh chóng phát triển theo một mô hình đô thị mới.
Đô thị hóa là quá trình biến đổi về phân bố các lực lượng sản xuất, bố trí dân cư, những vùng không phải đô thị trở thành đô thị. Tiền đề cơ bản của đô thị hóa là sự phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ... thu hút nhiều nhân lực từ nông thôn đến sinh sống và làm việc, làm cho tỉ trọng dân cư ở các đô thị tăng nhanh. Đô thị xuất hiện làm tăng sự phát triển giao thông với các vùng nông nghiệp xung quanh và các đô thị khác; phát triển văn hoá và sự phân công lao động theo lãnh thổ, tăng cường thành phần công nhân, tiểu thủ công, trí thức, thương nhân, kĩ thuật viên... Theo đó thì quá trình đô thị hóa ở Nam bộ khá đồng bộ và trong giai đoạn nào thì Sài Gòn vẫn giữ vị trí và vai trò quan trọng nhất.
3.2 Ở Nam bộ ít có sự phân biệt văn hóa và người Nam bộ nói chung (ngoại vi) với văn hóa và người Sài Gòn (trung tâm) nói riêng. Nếu không quá khắt khe có thể coi người/văn hóa Sài Gòn là đại diện cho người/ văn hóa Nam bộ, từ giọng nói, ngôn ngữ, ẩm thực, tính cách, cách thức làm ăn… Ở Sài Gòn khi thân thiết thì hỏi nhau “quê đâu” mà không hề có ý phân biệt người “tỉnh” hay “thành phố”.
Gia phả nhiều dòng họ, gia đình ở Nam bộ phần lớn được ghi nhận “thời ông cố ông sơ” từ miền Trung đi ghe theo biển vô Nam, đầu tiên định cư trên những giồng đất vùng cửa sông… rồi từ đó ngược các nhánh Cửu Long vào sâu vùng ngập trũng, khai phá đồng bằng và khai thác tự nhiên .
Công cuộc khai phá này chẳng hề dễ dàng thuận lợi chút nào! Do đó tính thực tiễn được đặt lên hàng đầu: tất cả hướng đến thực tế, không lý thuyết suông, không giáo điều, lấy hiệu quả lao động làm mục đích chính. Không hay than vãn, người Nam bộ thường nói “làm chơi ăn thiệt” nhưng đây là thể hiện tư duy giản dị mọi việc, “coi vậy mà hổng phải vậy”, nhìn khó khăn đã qua như một việc chơi chơi, còn kết quả thực sự mới là quan trọng, là đã “có ăn”.
Với hơn ba trăm năm đi xa “gốc gác” từ đồng bằng sông Hồng, sông Mã làm sợi dây “truyền thống” khép kín càng dãn ra. Những tính chất của không gian “nông thôn làng xã” biến đổi theo thời gian, bị/ được đứt gãy do phải thích ứng với không gian địa – xã hội khác. Thay vào đó là sự tự lập và tính linh hoạt ứng phó với hoàn cảnh điều kiện mới và từ đó tạo ra truyền thống mới, dám thay đổi cho phù hợp hoàn cảnh, thích nghi nhanh, chịu đổi mới. Quan trọng là không mặc cảm sợ sai và sửa sai nhanh.
Ở Sài Gòn/ Nam bộ “dư luận xã hội” không nặng nề khe khắt với những điều khác lạ, cái mới. Là bởi người Việt trên bước đường lưu chuyển vào đây đã trải nghiệm qua những vùng đất toàn những điều mới lạ. Cùng với sự nhạt đi của tính chất phong kiến gia trưởng, lại luôn cần đùm bọc nhau trong hoàn cảnh mới, tiếp xúc sớm với các giá trị dân chủ, bình đẳng của văn minh phương Tây làm cho người Sài Gòn khá cởi mở trong các mối quan hệ xã hội, cá nhân ít lệ thuộc, phụ thuộc vào cộng đồng và vì thế vai trò và trách nhiệm cá nhân rõ ràng.
Có thể nói tính cách người Sài Gòn/Nam bộ gắn liền với chữ “LÀM”; “làm ăn”, “Làm chơi ăn thiệt”, “làm đại”, “dám làm dám chịu”… sự liên kết gắn bó, hòa trộn những đặc điểm trên tạo nên tính cách người Sài Gòn/ Nam bộ.
Trong tiến trình lịch sử không thể phủ nhận một điều, với vị thế là thương cảng trung tâm kinh tế – văn hóa, có tầm giao lưu và ảnh hưởng đến khu vực rộng hơn, Sài Gòn luôn được coi là thành phố tiêu biểu và đại diện cho Nam bộ trên tất cả các lĩnh vực. Cũng cần lưu ý rằng, trong một thời gian dài Sài Gòn là thủ phủ của chính quyền thực dân và thủ đô của chính quyền miền Nam trước năm 1975, từng là một trung tâm chính trị. Những yếu tố trên đây hợp thành và tạo nên một đô thị cổ Bến Nghé – Gia Định, một đô thị Sài Gòn – TP.HCM độc đáo khác với Hà Nội hay Huế – hai thành phố cũng là trung tâm của cả nước trong giai đoạn lịch sử khác .
3.3 Thời hiện đại, quá trình dân cư của Sài Gòn cũng khác với nhiều đô thị khác: Thời kỳ chiến tranh Sài Gòn là nơi mà nhiều người từ các tỉnh miền Trung đổ vào, từ miền Tây Nam bộ lên, nhất là khi chiến sự ác liệt. Sau năm 1975 Sài Gòn cũng là nơi có tình trạng thay thế dân cư lớn nhất và kéo dài cho đến nay: Người (thị dân) Sài Gòn ra đi bằng nhiều con đường, lúc ồ ạt khi chẳng mấy ồn ào; người các tỉnh lại liên tục đổ vào Sài Gòn tới nay chưa hề giảm bớt (khác với Hà Nội trong chiến tranh dân cư rời bỏ thành phố đi về tản cư, sơ tán nông thôn, sau chiến tranh mới trở lại thành phố).
Tuy nhiên Hà Nội và Sài Gòn cũng có một số điểm giống nhau: 1/ Sau khi chiến tranh chấm dứt khá nhiều người Hà Nội “gốc” và Sài Gòn “xịn” đã rời thành phố đi nơi khác sinh sống, tạo ra khoảng trống trong cơ cấu dân cư là tầng lớp thị dân lâu đời; 2/ Chính quyền thiết lập sau chiến tranh (Hà Nội 1954 và Sài Gòn 1975) đều do (hầu hết) những người (kháng chiến) ở nông thôn, rừng núi trở về lãnh đạo, một giai đoạn dài tổ chức chính quyền không kịp thích nghi với đô thị lớn nhất nước và 3/ hiện nay hai thành phố này có số lượng người nhập cư nhiều nhất, phức tạp nhất.
Những đặc điểm này làm cho Hà Nội và Sài Gòn khó khăn trong việc xây dựng đô thị văn minh hiện đại. Đặc biệt, tình trạng đột biến dân cư nhanh, ồ ạt, sự đứt gãy ký ức cộng đồng của hai đô thị lớn nhất nước đã để lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực trong việc gìn giữ lối sống đô thị, bảo vệ và bảo tồn di sản đô thị.
Nam bộ được nhìn nhận có hai tiểu vùng trên cơ sở hai vùng địa hình: Đông Nam Bộ là lưu vực sông Đồng Nai và Tây Nam Bộ là lưu vực sông Cửu Long. Tuy nhiên về cộng đồng dân cư, về kinh tế và văn hóa giữa hai tiểu vùng khá giống nhau. Đây là điều tương đối khác so với miền Trung và miền Bắc. Trên cơ sở đó, Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh được coi là và luôn là đại diện cho Nam bộ. Chính vì vậy có thể coi những đặc trưng lịch sử - văn hóa của Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh cũng là những đặc trưng của nhiều đô thị ở Nam bộ. Nguồn vốn di sản đô thị ở TP. Hồ Chí Minh có những loại hình và giá trị thế nào thì các đô thị Nam bộ cũng có như vậy, tuy mức độ khác nhau.
Lời tạm kết
Hiện nay tại TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam bộ, ngoài hệ thống di tích Lịch sử văn hóa (phần lớn là cấp tỉnh thành) và các bảo tàng chưa được nhiều người biết đến thì chưa có chiến lược và chương trình cụ thể nhằm làm cho người dân và thế hệ trẻ hiểu biết nhiều hơn, đúng hơn về di sản văn hóa. Một vài chương trình truyền hình, chuyên mục trên một số tờ báo… chưa đủ sức mang lại sự yêu thích và khơi dậy ý thức bảo vệ di sản văn hóa. Mỗi khi có vụ việc phá hoại di sản thì báo chí lên tiếng rồi sau đó lại chìm vào lãng quên. Mặt khác các chương trình “xúc tiến quảng bá du lịch” còn nặng về “khai thác” mà chưa chú ý làm cách nào tăng thêm giá trị cho di sản văn hóa.
Nói về bản sắc đô thị Sài Gòn – Nam bộ là góp phần khẳng định: Nam bộ - Sài Gòn không chỉ có vai trò “cùng cả nước vì cả nước” về kinh tế mà di sản văn hóa của vùng đất này đã đóng góp những giá trị quan trọng đối với lịch sử - văn hóa Việt Nam. Mặt khác, bảo tồn di sản còn là nuôi dưỡng ký ức và tình cảm đối với thành phố, với quê hương, vì vậy, bảo tồn di sản đô thị Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh và các đô thị Nam bộ còn góp phần vào tiến trình hòa hợp hòa giải dân tộc.
[Trích từ một bài viết dài với 10 tài liệu tham khảo, trích dẫn.]


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BẢN SẮC ĐÔ THỊ SÀI GÒN TRONG BỐI CẢNH NAM BỘ (trích phần đầu và cuối của một bài dài)

Nguyễn thị Hậu Lời mở Nam bộ nói chung và vùng đất Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh nói riêng vẫn thường được gọi là “vùng đất mới”, “vùng đất có 3...