Nguyễn Thị Hậu
Trong những lúc “trà dư tửu hậu” hay “ngồi đồng” ở quán cà phê vỉa hè Sài Gòn, chúng
tôi nói đủ chuyện : từ chuyện lịch sử tới tin tức xã hội, từ văn hóa tới kinh tế… Nói gì thì
cuối cùng vẫn quay về chuyện CON NGƯỜI - cái gốc của mọi chuyện. Bởi vì xã hội nào tạo nên con người ấy, con người
nào phản ánh xã hội ấy.
Những người bạn
của tôi, và cả tôi nữa, hầu hết đã sống ở Sài Gòn trên dưới 40 năm, từ nhiều
vùng miền nhiều tỉnh thành, do những hoàn cảnh khác nhau mà đến/ vào/ về Sài
Gòn sinh sống. Có thể coi chúng tôi là “người nhập cư” vì cha mẹ không sinh sống
ở Sài Gòn và chúng tôi không sinh ra tại đây, nhưng cũng có thể coi là “người Sài Gòn” bởi vì chúng tôi đã trưởng thành, lập gia đình, làm việc
cho đến lúc nghỉ hưu, thậm chí có lẽ “nhắm mắt xuôi tay” cũng ở đây. Nhưng thế hệ con cái chúng tôi được sinh ra
và lớn lên tại Sài Gòn, mặc dù quê quán ghi trên Chứng minh nhân dân ở đâu thì chúng vẫn tự nhận là “người Sài Gòn
chánh hiệu”. Tất nhiên, nếu coi hộ khẩu là điều kiện tiên quyết thì chúng tôi
phải được coi là người Sài Gòn “xịn”.
Ở Sài Gòn khái niệm “người
nhập cư” thường được sử dụng trong cơ quan công quyền để phân biệt người có hộ
khẩu và người không/ chưa có hộ khẩu ở Sài
Gòn, nhằm mục đích “quản lý hành chánh”. Giới nghiên cứu hay gắn khái niệm này với loại hình “kinh tế phi
chính thức” trong việc nghiên cứu hoạt động kinh tế của đô thị Sài Gòn – thành
phố Hồ Chí Minh. Còn trong đời sống hàng ngày hầu như người Sài Gòn ít sử dụng cách
nói “người nhập cư” hay “dân nhà quê”, “dân tỉnh” mặc dù ở miền Tây Nam bộ hay
gọi người Sài Gòn là “người thành phố”, đi Sài Gòn là “lên thành phố”. Vậy thì tôi, vừa với tư cách là “người nhập cư” vừa là “người Sài Gòn” có
thể biết gì, hiểu gì về Người Sài Gòn? Có thể bắt đầu từ vài nhận biết có phần rời rạc sau đây chăng?
Đầu tiên, “người
Sài Gòn” là sự hòa nhập về văn hóa (tính cách, lối sống, ngôn ngữ, tín ngưỡng, ẩm
thực, trang phục…) của người Việt, người Hoa và những tộc người “bản địa”. Người
ta cứ quen nói rằng “Sài Gòn 300 năm” nhưng đó chỉ là nói về thời kỳ thiết lập
nền hành chính của Chúa Nguyễn từ 1698 mà quên mất/ chưa biết Sài Gòn còn có
quá khứ hơn 3000 năm của văn minh Đồng Nai – Cửu Long. Văn minh ấy do những tộc
người khác “Việt” dựng nên. Rồi từ thế kỷ
XVI – XVII, người Việt, người Hoa đã dấn bước vào vùng đất này, từ đó Sài Gòn,
Nam bộ có thêm lớp chủ nhân mới. Cùng với người Khmer, người Mạ, người Chăm… sự
hòa nhập truyền thống, văn hóa của tất cả những chủ nhân đã tạo nên Sài Gòn và
người Sài Gòn mới mẻ, năng động và chân tình.
Khi nói đến người
Việt người ta hay nói đến truyền thống lịch sử lâu đời và hào hùng, bốn ngàn năm văn hiến, văn minh sông Hồng,
con rồng cháu tiên, những triều đại nổi tiếng chiến thắng ngoại xâm... Còn khi nói đến người Việt (ở) Nam bộ
thì
đầu tiên là kể về điều kiện tự nhiên thuận lợi của đồng bằng
sông Cửu Long: vùng đất được thiên
nhiên ưu đãi, đất rộng người thưa, ít bị thiên tai như bão lụt hạn hán… Sau mới nói
về nguồn gốc “lưu dân” và 300 năm hình
thành. Nghiên cứu gia phả nhiều dòng họ, gia đình ở Nam bộ phần lớn được
ghi nhận “thời ông cố ông sơ” từ miền Trung đi ghe theo biển vô Nam, đầu
tiên định cư trên những giồng đất vùng cửa sông… rồi từ đó ngược các
nhánh Cửu Long vào sâu vùng ngập trũng, khai phá đồng bằng và khai
thác tự nhiên. Công cuộc khai phá này chẳng hề dễ dàng thuận lợi
chút nào! Do đó tính thực
tiễn
được đặt lên hàng đầu: tất cả hướng đến thực tế, không lý thuyết suông, không giáo điều, lấy
hiệu quả lao động làm mục đích chính. Không hay than vãn, người Nam bộ bình
thản “làm chơi ăn thiệt”. Đây chỉ là một cách nói đơn giản hóa, “coi vậy
mà hổng phải vậy”, coi khó khăn đã qua như một việc chơi chơi, còn kết
quả thực sự mới là quan trọng, là đã “có ăn”.
Người Sài Gòn/ Nam bộ di chuyển càng xa cái “gốc” đồng bằng sông Hồng
thì sợi dây truyền thống càng dãn ra. Những tính chất của không gian “nông thôn làng xã” khép kín biến đổi theo
thời gian, bị/ được đứt gãy do phải thích
ứng với không gian địa – xã hội khác. Thay vào đó là sự tự lập và tính linh hoạt ứng phó với hoàn cảnh điều kiện mới và từ đó tạo ra truyền thống mới, dám thay đổi cho phù hợp hoàn cảnh, thích nghi
nhanh, chịu đổi mới “làm đại nghen? Ừa, làm đại đi” là phong cách làm ăn Sài Gòn/
Nam bộ. Làm đi, có sai cũng không sao, làm lại/ sửa sai mấy hồi! Quan
trọng là không mặc cảm sợ sai và sửa sai nhanh.
Ở Sài Gòn/ Nam bộ “dư luận xã hội” không nặng nề khe khắt với những điều
khác lạ, cái mới. Là bởi người Việt
trên bước đường lưu chuyển vào đây đã trải nghiệm qua những vùng đất toàn những
điều mới lạ. Cùng với sự nhạt đi của tính chất phong kiến gia trưởng, việc tiếp
xúc sớm với các giá trị dân chủ, bình đẳng của văn minh phương Tây làm cho người
Sài Gòn khá cởi mở và trong các mối quan hệ xã hội và trong gia đình. Tính chất dân chủ trong xã hội phát triển nhanh, biểu hiện ở
chỗ cá nhân ít lệ thuộc, phụ thuộc vào cộng đồng và vì thế vai trò
và trách nhiệm cá nhân cao “dám làm dám
chịu”.
“Làm chơi ăn thiệt”, “làm đại”, “dám làm dám chịu”… sự liên kết gắn bó, hòa trộn ba đặc điểm trên tạo nên người Sài Gòn/ Nam bộ. “3 trong 1” từ ứng xử đến làm ăn, trong sinh hoạt… không tách rời một đặc điểm nào, hình thành tính cách và làm nên hiệu quả của “công chuyện làm ăn” của
người Sài Gòn.
Nói về Nam bộ
thì không có hay ít có sự phân biệt
văn hóa và người Nam bộ nói chung với văn hóa và người Sài Gòn nói riêng (có chăng có thể phân biệt chút ít giữa Đông và Tây Nam bộ). Nếu
không quá khắt khe có thể coi người/văn hóa Sài Gòn là đại diện cho người/ văn
hóa Nam bộ, từ giọng nói, ngôn ngữ, ẩm thực, tính cách, làm ăn… Có lẽ vì
vậy mà ở Sài Gòn khi cần thì hỏi nhau “quê đâu” mà không hề có ý
phân biệt người “nhà quê” hay “thành phố”. Giai đoạn đương đại, quá trình dân cư của Sài Gòn
cũng khác với nhiều đô thị khác: Thời kỳ chiến tranh Sài Gòn là nơi mà nhiều người từ các tỉnh miền Trung đổ vào, từ
miền Tây Nam bộ lên, nhất là khi chiến sự ác liệt. Sau năm 1975 Sài Gòn cũng là
nơi có tình trạng thay thế dân cư lớn nhất và kéo dài cho đến
nay: Người (thị dân) Sài Gòn
ra đi bằng nhiều con đường, lúc ồ ạt khi chẳng mấy ồn ào; Người các tỉnh lại liên tục đổ vào Sài Gòn tới nay chưa hề
giảm bớt. Còn Hà Nội trong chiến tranh dân cư rời bỏ thành phố đi về
(tản cư, sơ tán) nông thôn, sau chiến tranh mới trở lại thành phố. Tuy nhiên Hà Nội và Sài Gòn cũng có một số điểm giống nhau: 1/ Sau khi
chiến tranh chấm dứt khá nhiều người Hà Nội “gốc” và Sài Gòn “xịn” đã rời thành
phố đi nơi khác sinh sống, tạo ra khoảng trống trong cơ cấu dân cư là tầng lớp
thị dân lâu đời; 2/ Chính quyền thiết lập sau chiến tranh (Hà
Nội 1954 và Sài Gòn 1975) đều do (hầu hết) những người (kháng chiến) ở nông thôn, rừng núi trở về lãnh đạo, tổ chức chính
quyền chưa kịp thích nghi với những đô thị lớn nhất nước và 3/ hiện nay hai
thành phố này có số lượng người nhập cư nhiều nhất. Những đặc điểm
này để lại cho Hà Nội và Sài Gòn nhiều khó khăn trong việc xây dựng đô
thị văn minh hiện đại.
Nhưng, ai đã vô Sài
Gòn làm ăn sinh sống, chắc chắn trở thành “người Sài Gòn”, bởi Sài
Gòn phóng khoáng và rộng rãi mang lại cơ hội cho mọi người, bởi Sài
Gòn không tự coi mình là đặc biệt khi đang sống bằng nguồn lực của chính
mình và của những người đến từ mọi miền, đồng thời Sài Gòn cũng
luôn chia sẻ, đóng góp những gì mình có cho cả nước.
Là kẻ hậu sinh trong việc nghiên cứu về văn hóa Sài Gòn/ Nam bộ; lại chưa được coi là “người
Sài Gòn chánh hiệu”, vậy mà dám “tản mạn” về Sài Gòn và người Sài Gòn, âu cũng do cái tính
“làm đại” của người Sài Gòn/
Nam bộ đã nhiễm vào người. Kính
mong các bậc trưởng thượng về “Sài Gòn học, Nam bộ học” lượng thứ.
Sài Gòn 23/11/2012
Báo Lao Động Tết 2013 đang bằng tựa *Khí chất người Sài Gòn*