1
Khoảng
đầu thế kỷ 20 nhiều đô thị ở Việt Nam bắt đầu được quy hoạch và xây dựng theo
kiểu phương Tây, tại trị sở các tỉnh thời Nguyễn. Ở trung tâm là công trình
Dinh (Hotel de ville) và Nhà thờ lớn, xung quanh là các cơ quan hành chính và
công trình công cộng, dịch vụ. Ngày nay đây chính là “vùng lõi di sản” của đô
thị, nơi tích lũy các giá trị lịch sử - văn hoá quan trọng.
Bên
cạnh di sản kiến trúc hình thành thời thuộc địa, các đô thị còn bảo tồn di sản
truyền thống: Những ngôi đình, chùa, hội quán, đền miếu, nhà cổ, hoặc quần thể phố
cổ như Hội An hay Chợ Lớn… Những công trình này hiện diện rải rác trong đô thị,
có khi từng là trung tâm của làng cổ hay một cộng đồng. Quá trình đô thị hoá suốt
thế kỷ 20 đã làm thay đổi cảnh quan, thậm chí huỷ hoại nhiều công trình kiến
trúc cổ xưa.
Do
mỗi đô thị có cảnh quan tự nhiên, địa hình và yếu tố văn hóa khác nhau nên di sản
đô thị sẽ mang những đặc trưng riêng. Di sản đô thị, có thể hiểu một cách cụ thể,
là tập hợp các địa điểm, vị trí, khu phố, các công trình và tập quán mà một xã
hội được kế thừa từ quá khứ, muốn bảo tồn và truyền lại cho các thế hệ tương
lai. Đó là những công trình tiêu biểu của kiến trúc một thời, đồng thời ẩn chứa,
lưu giữ trong nó biết bao ký ức và câu chuyện về lịch sử và con người đô thị. Trải
qua quá trình lịch sử những đặc trưng về kiến trúc, cảnh quan trở thành bản sắc
riêng của từng đô thị. Chính vì vậy các quốc gia đều coi trọng việc bảo tồn di
sản đô thị.
2.
Liên
quan đến nghiên cứu bảo tồn và phát huy giá trị di sản đô thị có nhiều ngành
khoa học và cơ quan quản lý nhà nước. Những năm gần đây khảo cổ học đô thị được
coi là một ngành quan trọng trong quá trình này, bởi tính chất nghiên cứu vừa
chuyên sâu vừa liên ngành. Qua đó góp phần tích cực vào thực tiễn bảo vệ và ứng
dụng giá trị di sản vào quá trình phát triển đô thị.
Một
vấn đề đặc biệt khó khăn là hiện nay trong quá trình đô thị hóa, nhiều địa
phương không quan tâm giữ gìn bảo tồn công trình kiến trúc đô thị mà thường
phá bỏ để xây công trình “hiện đại”. Điều đó thể hiện sự hiểu biết giá trị di
sản văn hóa đô thị còn hạn chế, kéo theo sự “phủ nhận” những chứng tích lịch
sử văn hoá thời cận – hiện đại.
Dưới
lòng đất các đô thị còn có những di tích thời tiền sơ sử, bởi vì vị trí các đô
thị cũng là khu vực thuận tiện cho các cộng đồng cổ xưa sinh sống: đồi gò cao,
gần sông hay nơi các dòng sông giao nhau, khu vực cửa sông – vịnh biển… Hiện
nay công tác khai quật di tích gặp nhiều khó khăn do đã có công trình kiến trúc
đời sau xây dựng bên trên. Vì vậy, chỉ khi các công trình hiện hữu bị phá bỏ để
xây dựng lại, hay giải toả xây dựng hạ tầng giao thông… thì khảo cổ học mới có
điều kiện khảo sát, khai quật và nghiên cứu, đề xuất những giải pháp phù hợp.
Vì
vậy hiện nay ở Việt Nam khảo cổ học đô thị chú trọng làm việc với các di
tích còn tồn tại trên mặt đất: nghiên cứu, phân loại, xác định loại hình,
chức năng, đánh giá tính chất, giá trị lịch sử - văn hóa. Từ đó đề xuất công
tác khai quật, bảo tồn, trùng tu hay phục dựng nếu cần thiết. Đặc biệt đề xuất
giải pháp phát huy giá trị di sản đô thị trong đời sống đương đại một cách phù
hợp, mà
điển hình là trường hợp Hoàng Thành Thăng Long.
2.
Tuy
các đô thị được “định danh” là thành phố còn rất ít, nhưng xu thế đô thị hoá –
hiện đại hoá là không thể đảo ngược. Vì vậy, dù với danh xưng gì thì Đà Nẵng, Hội
An, Tam Kỳ và những khu đô thị mới sẽ hình thành, vẫn cần bảo tồn được và phát
triển những di sản đô thị và di sản truyền thống của mình.
Tính
đến đầu năm 2025, tỉnh Quảng Nam cũ có 458 di tích được xếp hạng, trong đó có
04 di tích quốc gia đặc biệt (Đô thị cổ Hội An và Khu đền tháp Mỹ Sơn vừa là di
tích quốc gia đặc biệt vừa là Di sản Văn hóa thế giới), 67 di tích cấp quốc
gia, 387 di tích cấp tỉnh. Ngoài ra, còn có Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù
Lao Chàm – Hội An. Thành phố Đà Nẵng cũ có 88 di tích được xếp hạng, bao gồm 2
di tích quốc gia đặc biệt, 17 di tích quốc gia và 69 di tích cấp thành phố.
Như
vậy hệ thống di tích của thành phố Đà Nẵng hiện nay bao gồm đầy đủ các loại
hình: Di sản thế giới, khảo cổ học, kiến trúc nghệ thuật, lịch sử cách mạng,
danh lam thắng cảnh… Bên cạnh đó còn hệ thống di sản văn hoá phi vật thể, di sản
tư liệu phong phú, đa dạng, chưa kể hàng trăm công trình, địa điểm trong danh mục
Kiểm kê di tích theo quy định của Luật Di sản văn hoá.
Cũng
như các thành phố khác, bảo tồn di sản đô thị ở Đà Nẵng gặp nhiều khó khăn do một
quan niệm đã rất lạc hậu, đó là “mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển”. Bên cạnh
các di sản vật thể được bảo tồn và phát huy giá trị (qua phát triển du lịch)
như Hội An, Mỹ Sơn, Bảo tàng và các di tích trong thành phố, các làng nghề thủ
công, Cù lao Chàm… thì nhiều thắng cảnh đã bị biến đổi do những công trình hiện
đại (khu vực Bà Nà, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, ven biển từ Đà Nẵng đến Hội An…),
làm giảm giá trị di sản tự nhiên và ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng. Cần lưu ý,
bên cạnh hai Di sản thế giới thì các thắng cảnh núi – biển của Đà Nẵng là một lợi
thế cạnh tranh quan trọng so với nhiều trung tâm du lịch cả trong và ngoài nước.
Để
có thể bảo vệ hệ thống di sản văn hoá này, hạn chế những tổn hại của quá trình
hiện đại hoá và sự dịch chuyển của đô thị trong giai đoạn sáp nhập hành chính, chính
quyền thành phố Đà Nẵng cần xác định rõ: bảo tồn di sản là một phương thức đặc
biệt của phát triển bền vững. Vì vậy cần thực hiện những giải pháp căn cơ, khoa
học. Bắt đầu từ đưa quy hoạch bảo tồn di sản trở thành một hợp phần của quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, từ đó xây dựng các kế hoạch khảo sát, kiểm kê di
tích, thực hiện khai quật khảo cổ học, lập bản đồ hệ thống các công trình, di
tích và cập nhật thường xuyên về tình trạng cũng như dự báo tác động (của tự
nhiên và xã hội). Tiếp tục bảo tồn, trùng tu các di tích, hạn chế tối đa tác động
và phá huỷ cảnh quan tự nhiên, bảo vệ nghiêm ngặt những khu vực đã bị tổn
thương có có nguy cơ bị tổn thương. Phát triển du lịch văn hoá, du lịch nghỉ dưỡng
theo định hướng du lịch bền vững.
Đồng
thời với việc toàn xã hội thực hiện nghiêm túc Luật Di sản văn hoá, sự đồng bộ của
các cơ quan quản lý nhà nước liên quan, kinh nghiệm quan trọng đã được áp dụng
thành công ở nhiều quốc gia là có quan điểm nhất quán: Di sản đô thị là thuộc về
cộng đồng, phải được coi là nguồn vốn xã hội phục vụ lợi ích cộng đồng, tham
góp tích cực vào phát triển bền vững. Di sản lịch sử - văn hóa chỉ có thể được
bảo tồn và phát huy giá trị khi cộng đồng có cơ hội tham gia đóng góp vào cơ chế
quản lý đô thị, nhất là chính sách và thực thi chính sách bảo tồn di sản văn
hóa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét