Nguyễn Thị Hậu
Nhiều năm trước tôi từng vài lần đến Côn Đảo vì công
việc. Ngày ấy đến với Côn Đảo chỉ có thể bằng tàu sắt lênh
đênh trên biển mười mấy tiếng. Vào mùa biển động tàu phải ngừng chạy, hàng tuần
không có thực phẩm và những hàng thiết yếu chuyển ra đảo. Khi ấy Côn Đảo là một
nơi buồn hiu hắt từ ngày này qua tháng khác, chưa có du khách mà chỉ những
người có việc đến đây vài ngày, hay vài tuần, rồi lại vội vã ra đi...
Cảnh quan trên đảo chỉ là những hàng bàng cổ thụ
luôn đứng im trầm mặc, những khu nhà tù rộng lớn xám xịt, nghĩa địa Hàng Keo,
Hàng Dương lạnh lẽo... Điện bằng máy phát chỉ có vài tiếng trong ngày, khoảng 7
giờ tối cả đảo chìm trong bóng đêm, trừ vài ngày có trăng. Trong không gian tĩnh
lặng chỉ thấy những hình khối đen sì bất động. Ngoài tiếng sóng biển rì rầm nếu
lắng nghe thật kỹ dường như vẫn có những tiếng thì thầm đâu đó...
Côn Đảo trong lịch sử
Giai đoạn trước công nguyên, từ Côn Đảo vào vùng cửa
biển Vũng Tàu - Cần Giờ đã có dấu tích khảo cổ học của các cộng đồng cư dân tiền
sử sống ven biển, đó là các khu mộ chum với nhiều đồ tùy táng bằng đồ gốm, đá
quý, vàng, sắt... như Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ (Cần Giờ), Giồng Lớn
(Long Sơn – Vũng Tàu) và Cồn Miếu Bà, Cồn Hải Đăng (Côn Đảo)… Hiện vật ở các di tích này có nguồn gốc khác
nhau phản ánh mối quan hệ giao lưu văn hóa đa dạng, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống
trao đổi thương mại trên đường biển ở khu vực Đông Nam Á và rộng hơn, vào khoảng 2.500 năm cách ngày nay.
Đầu thế kỷ
XIX sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hòai Đức đã ghi chép về cư dân và
sản vật Côn Đảo như sau:
“Ở giữa biển Đông, từ cửa cảng Cần Giờ chạy thuyền
ra biển theo hướng đông mặt trời mọc 2 ngày mới đến. Đảo lớn 100 dặm, có ruộng
núi trồng lúa, bắp, khoai, đậu, nhưng cũng không nhiều, nên thường phải mua gạo
ở Gia Định mới đủ dùng. Thổ sản ở đây là ngựa và trâu, núi không có cọp beo.
Dân ở đảo tự kết lại làm binh sĩ, gọi Tiệp Nhất, Tiệp Nhị, Tiệp Tam ba đội,
trực thuộc đạo Cần Giờ, có đủ khí giới để giữ gìn đất ấy phòng quân cướp hung
dữ Đồ Bà, không cần kêu gọi chỗ khác đến giúp. Dân lính ở đấy thường lấy yến
sào, đồi mồi, vích, quế hương, mắm, ốc tai tượng, rồi theo mùa mà dâng nộp; còn
lại thì đánh bắt hải sản như cá, tôm để sinh sống. Quả cau ở đây to, vỏ màu
hồng, vị lại ngọt thơm, cứ đến đầu mùa xuân, lúc cau ở Gia Định chưa kết quả,
thì cau ở đây đã dùng được, người ta chở vào bán với giá rất cao”.
Như vậy, nếu Cần Giờ từng là “cảng thị sơ khai”
thời tiền sử thì Côn Đảo được coi
là “tiền cảng” của cảng Bến Nghé – Gia Định thời Nguyễn. Vị thế quân sự quan trọng của Côn Đảo
là trạm tiền tiêu, Cần Giờ là cửa ngõ của toàn bộ khu vực Nam Đông Dương. Vì
vậy, trong lịch sử giữa Côn Đảo, Cần Giờ và vùng/thành Gia Định đã có mối quan
hệ chặt chẽ về kinh tế và quân sự.
Năm 1861 quân đội Pháp chiếm Côn Đảo, ngay sau đó đã
biến Côn Đảo thành nơi giam giữ các phạm nhân chống Pháp. Từ 1954 chính quyền
Việt Nam Cộng hòa tiếp tục phát triển hệ thống nhà tù nổi tiếng khắc nghiệt và
nơi lưu đày chủ yếu là tù chính trị. Dưới chế độ nhà tù Côn Đảo, khoảng 20.000
người Việt Nam thuộc nhiều thế hệ đã chết và được chôn cất tại Nghĩa trang Hàng
Dương, Hàng Keo và nhiều khu mộ khác.
Cũng từ quá trình biến hòn đảo xinh đẹp bình yên
thành một “địa ngục trần gian”, dân cư sống trên đảo bị chính quyền buộc phải
đi nơi khác sinh sống, vì sợ tù nhân vượt ngục sẽ được người dân che chở và
giúp đỡ vượt biển trở về đất liền. Từ đó trên đảo chỉ còn nhà tù, tù nhân và những người phục
vụ trong bộ máy chính quyền. Các làng chài biến mất, cộng đồng cư dân di dạt
vào đất liền, nghề biển và nghề thủ công chế biến sản phẩm từ rừng và biển mai
một dần... Một giai đoạn “lịch sử văn hóa” của cộng đồng cư dân trên đảo bị đứt
gãy, thay vào đó là lịch sử đẫm máu dài hơn 100 năm mà bao nhiêu chứng tích còn
hiện diện rõ ràng tại Côn Đảo.
Từ sau 1975, Côn Đảo được biết đến là nơi hội tụ
giữa bảo tồn thiên nhiên và chứng tích lịch sử nổi tiếng.
Môi trường xanh – du lịch xanh ở Côn Đảo
Sau nhiều năm, nay trở lại thấy Côn Đảo đã khác xưa. Từ
trên máy bay nhìn xuống thấy cả hòn đảo sáng sủa tươi tắn hơn nhiều. Dưới ánh nắng
chói chang, cả hòn đảo là một màu xanh thắm, được viền màu xanh biển càng xa bờ
càng xanh biếc. Con đường từ sân bay Cỏ Ống về trung tâm đảo trải nhựa bằng phẳng,
một bên là rừng nguyên sinh một bên là bờ biển và những hòn đảo nhỏ thuộc đảo lớn
Côn Sơn. Hiện nay Côn Đảo đang tích cực triển khai “Chuyển đổi xanh”. Thực ra
quá trình này đã được thực hiện từ nhiều năm trước, đầu tiên là việc hạn chế
rác thải nhựa trên đảo. Du khách đặt chân đến đảo là được biết ngay những thông
tin liên quan đến bảo vệ môi trường ở đây. Tại các khách sạn, cơ sở lưu trú,
trong các công sở, đi khắp đảo hầu như không nhìn thấy rác thải là bao ni lon,
chai nhựa ly nhựa hay hộp xốp... Tuy nhiên tại các cửa hàng, các chợ vẫn còn sử
dụng loại bao bì này.
So với nhiều đặc
khu khác, Côn Đảo đang giữ một lợi thế cạnh tranh quan trọng: môi trường xanh
và sạch theo hướng bền vững! Vì vậy chính quyền và người dân Côn Đảo đều nghiêm
túc thực hiện việc loại trừ rác thải độc hại, do nhận thức rõ sự cần thiết, thậm
chí tính cấp thiết của việc bảo tồn môi trường tự nhiên. “Chuyển đổi xanh” ở đặc
khu Côn Đảo bắt đầu từ bảo toàn môi trường tự nhiên, cắt giảm phát thải, chuyển
đổi đồng bộ phát triển kinh tế – xã hội – hạ tầng, nhằm tránh cho Côn Đảo nguy
cơ tổn thương tự nhiên và văn hóa từ quá trình “hiện đại hóa”.
Từ lợi thế môi trường sinh thái, du lịch trở thành kinh tế
ngành quan trọng nhất của Côn Đảo, định hướng phát triển du lịch sinh thái – lịch
sử – tâm linh, với quy mô vừa phải để giữ gìn môi trường và bản sắc địa phương.
Chủ đề thu hút du khách nhất là du lịch lịch sử – tâm
linh. Tuyến điểm chính là viếng thăm hệ thống di tích Nhà tù Côn Đảo, cầu tàu
914, nghĩa trang Hàng Dương (nơi an nghỉ của liệt sĩ Võ Thị Sáu và nhiều nhà
cách mạng), nghĩa trang Hàng Keo – nơi nhiều tù nhân đã chết trong quá trình
lao động khổ sai... Hiện nay các di tích nhà tù thời Pháp, thời Mỹ đều được
trùng tu, tôn tạo tốt, giữ được nguyên trạng các trại giam và cảnh quan. Hai
nghĩa trang lớn xây dựng khang trang, sạch sẽ, được chăm chút chu đáo, là nơi tổ
chức nhiều hoạt động chính trị như lễ tưởng niệm, dâng hương, “đền ơn đáp
nghĩa”... thu hút đông khách trong và ngoài nước, đặc biệt vào các ngày lễ lớn.
Hoạt động du lịch sinh thái – khám phá luôn được kết hợp
cùng du lịch tâm linh. Bao gồm các điểm đến trên đảo như Vườn quốc gia Côn Đảo,
trekking rừng, leo núi, quan sát chim, động vật hoang dã. Các tour khai thác biển
như lặn ngắm san hô, xem bò biển, câu cá biển... Đặc biệt tour xem rùa biển đẻ
trứng (Hòn Bảy Cạnh, Hòn Cau), và sau đó là tour của các tình nguyên viên mang
thả rùa con về với biển. Qua những hoạt động du lịch gắn với thiên nhiên, nhiều
du khách cho biết nhận thức bản thân về giá trị của tài nguyên rừng, biển được
nâng cao, ý thực bảo vệ môi trường được chuyển biến thành hành động thiết thực.
Đồng thời với những chương trình du lịch cho số đông, các
cơ sở du lịch nghỉ dưỡng cao cấp đã hiện diện gồm các resort, khách sạn 4–5 sao
như Six Senses Côn Đảo, Poulo Condor Boutique, The Secret Côn Đảo, Sài Gòn
tourist Côn Đảo... và sớm trở thành thương hiệu được nhiều khách hàng cao cấp
biết đến tại Côn Đảo. Không chỉ là không gian yên tĩnh, trong lành, cảnh quan
biển – núi vô cùng quyến rũ, mà các khách sạn này còn nhiều dịch vụ kết hợp
chăm sóc sức khỏe, yoga, thiền, ẩm thực hữu cơ... Mang đến một kỳ nghỉ dưỡng trọn
vẹn, bổ ích cho du khách cả về thân thể và tinh thần.
Du lịch cộng đồng đang trở thành một hướng phát triển
quan trọng ở Côn Đảo. Tuy dân số hiện nay tại Côn Đảo chỉ hơn 11 ngàn người,
nhưng đó là nhân tố đầu tiên để xây dựng du lịch cộng đồng. Các hình thức như lưu
trú homestay, cùng trải nghiệm đời sống ngư dân, tham gia một số nghề thủ công
như chế biến hải sản, làm mứt, bánh, kẹo từ hạt bàng, tham quan cơ sở nuôi trai
lấy ngọc làm đồ trang sức... Những “đặc sản” OCOP địa phương đang dần lấy lại
“thương hiệu” sau hơn trăm năm biến mất.
Đi tìm
chìa khóa mở cửa “thiên đường” Côn Đảo
Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và quá trình lịch sử đã
tích tụ ở đây những di sản quý giá đồng thời cũng dễ bị tổn thương và rất khó
khôi phục hay bù đắp. Nhất là hiện nay Côn Đảo trở thành đặc khu thuộc TP. Hồ
Chí Minh – trung tâm kinh tế lớn, nơi mà di sản văn hoá và môi trường thiên
nhiên luôn có nguy cơ chịu tác động mạnh mẽ do sự phát triển “nóng” về kinh tế
và quá trình đô thị hoá.
Từ góc nhìn mối quan hệ gắn bó giữa Hệ sinh thái tự nhiên
đặc hữu biển – đảo – rừng – núi của Côn Đảo, với quá trình lịch sử - xã hội đặc
thù, và vị thế gắn bó với thành Gia Định xưa - TP. Hồ Chí Minh nay, có thể nhận
biết ba đặc trưng lịch sử - văn hóa của Côn Đảo cần được bảo tồn và phát huy
đúng hướng, phải được kiểm soát chặt chẽ về tốc độ và mức độ. Đó là:
Một, tài sản lớn nhất của Côn Đảo chính là thiên nhiên
nguyên sơ, vừa mang tính đa dạng
sinh học cao, vừa có nhiều loài và quần xã mang tính đặc hữu, nhờ vị trí địa lý
tách biệt, khí hậu nhiệt đới hải dương và lịch sử tiến hóa lâu dài. Côn
Đảo không có đất sản xuất nông nghiệp, không có nguồn khoáng sản lớn, tuy không là đầu mối giao thông chiến lược nhưng quan trọng về quân sự.
Bù lại, Côn Đảo có một quần thể tự nhiên rừng
– biển hiếm có ở Việt Nam, đây
là “vốn tự nhiên” quý giá nhất và gần như không thể tái tạo nếu bị mất đi. Vì vậy,
tài nguyên tự nhiên là nền
tảng của sinh kế cộng đồng và phát triển
kinh
tế - xã hội của Côn Đảo.
Hai, Côn đảo là vùng văn hoá – lịch
sử tâm linh. Thiết
chế xã hội đặc thù là hệ thống nhà
tù hàng trăm năm tại đây
làm cho không gian Côn Đảo
chứa đựng yếu tố tâm linh. Trên thực tế tại Côn Đảo đã có hơn hai mươi ngàn người hy
sinh, trong đó phần lớn chưa được tìm
thấy di cốt, phần khác chưa xác định được danh tính... Đấy còn là “món nợ” của
thế hệ sau đối với tiền nhân, cần phải ứng xử tử tế với di sản thiêng liêng
này.
Tính
thiêng còn đến từ văn hóa
dân gian Côn Đảo qua việc thờ cúng Bà Phi Yến và Liệt sĩ Võ Thị Sáu. Bà Phi Yến
và Cậu Hoàng Cải là nhân vật truyền thuyết được tích hợp với tín ngưỡng “thờ Bà
thờ Cậu” phổ biến của ngư dân Nam bộ, lễ giỗ bà tổ chức hàng năm tại An Sơn Miếu
nay là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Liệt sĩ Võ Thị Sáu hy sinh khi còn
rất trẻ, được an táng tại Nghĩa trang Hàng Dương cùng hàng ngàn người Việt Nam
yêu nước. Ngôi mộ của liệt sĩ và nghĩa trang này cũng trở thành nơi “hành
hương” tâm linh, tín ngưỡng mới của du khách trong nước.
Ba, Không gian xã hội – cộng đồng bình yên, chất phác.
Do điều kiện lịch sử - xã hội nên dân cư Côn Đảo không nhiều và không phát triển kinh tế biển. Thành phần dân cư khá thuần nhất, hiện
nay ngoài cán bộ, công chức thì người
dân sống bằng buôn bán nhỏ, dịch vụ - du lịch, chế biến thực phẩm... Lối sống thuần phác, tuân thủ luật
pháp tốt, ứng xử với du khách khá giản dị, hiền hòa. Đây cũng là một lợi thế
trong du lịch, giống như trường hợp phố cổ Hội An nhiều năm trước.
Đây là ba chiếc “chìa khóa vàng” sẽ mở ra những cơ hội để
biến Côn Đảo trở thành một “thiên đường du lịch” của Việt Nam và khu vực. Muốn
có tương lai bền vững, từ hôm nay phải giữ được thiên nhiên và văn hóa, việc định
vị lại hình ảnh Côn Đảo như một khu vực du lịch nghỉ dưỡng, học tập và bảo tồn sinh
thái có kiểm soát sẽ giúp Côn Đảo phát triển kinh tế bền vững. Hiện nay, đặc
khu Côn Đảo trực thuộc TP. Hồ Chí Minh (mới) là sự tiếp nối một truyền thống lịch
sử, đồng thời cũng mang lại cho Côn Đảo một vị thế quan trọng mới.
Côn Đảo, 10.8.2025
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét