Giới thiệu sách của Nguyễn Thị Hậu:
NGUYỄN THỊ HẬU – ĐI LÀ ĐỂ ĐẾN, ĐỂ VỀ VÀ ĐỀ THƯƠNG NHỮNG MIỀN QUA…
Ấn tượng nhất về cái đọc, được gây ra từ sách của Nguyễn Thị
Hậu là một giọng văn tự sự đậm chất Nam Bộ, trong cách kể chuyện rủ rỉ tâm tình,
gây nhớ, gây thương, và gây ngẫm ngợi… của người viết. Với tư thế và tâm thế của
một phụ nữ làm nghề đặc biệt – khảo cổ học, kể về những miền đất đi qua
– với muôn vàn thương nhớ.
Thực ra, Hậu không chỉ đi qua, mà là đi đến
và cũng là đi về miền đất quê hương, nơi cha sinh mẹ đẻ. Và Hậu đã không
ngừng đi, không chỉ đi, trên dọc dài đất nước mình. Để rồi, tất cả sự
đi chứa chan cảm xúc ấy, đã lên hương, thành tình tự, ngụ trong một chữ thương,
(theo cách nói Nam Bộ, chữ thương dùng để chỉ chữ yêu. Con trai
Nam Bộ không nói anh yêu em mà nói anh thương em).
Bởi vậy, chữ thương ngự
ngay tên sách của Hậu: Thương những miền qua.
Vì thế, sách có chữ thương này rất có thể động lòng
người chịu đọc nó.
Bởi lẽ, người đọc nào mà chẳng thương miền đất đã sống, thương
miền đất sắp đến và thương về miền đất mình sẽ trở lại - nơi quê hương nguồn cội.
Như khát khao “quay đầu về núi” ?...
Chính vì thế, tôi trộm nghĩ, thương, là từ khoá đặc
hữu Nam Bộ trong cuốn sách được viết bằng thể kí văn học, cũng mặc nhiên đặc hữu
cho lựa chọn chính xác của Hậu, đó là thể tuỳ bút: Thương những miền qua.
Chữ thương, với cái viết riêng của Hậu, vì thế, bỗng
đã thành một từ khoá biểu cảm, đặc hiệu
nhất cho cảm xúc của chủ thể viết Nguyễn Thị Hậu.
Trước
hết là thương mình, được cha sinh mẹ đẻ, trong một hoàn cảnh đặc biệt: cha mẹ
là người miền Tây Nam Bộ, cùng đi theo kháng chiến chống Pháp, cùng ra Bắc tập
kết năm 1954, hoạt động nghệ thuật ở Hà Nội hơn hai mươi năm và về lại Sài gòn
giải phóng năm 1975.
Nguyễn
Thị Hậu, sinh năm 1958 tại Hà Nội, hiển nhiên trở thành dấu cộng đẹp về địa -văn - hoá, giữa hai miền Nam - Bắc, giữa Hà Nội thủ đô và Sài Gòn sau giải phóng.
Về nguồn gốc của mình, Hậu viết giản dị “Quê tôi ở miền Tây, tôi sinh ở Hà Nội
và sống ở Sài Gòn”: “Quê ngoại tôi cách quê nội một nhánh Tiền Giang, nối liền
nhau bằng bến đò Mỹ Hiệp”. Sinh ở Hà Nội, Hậu nói giọng Hà Nội, cho đến giờ,
Hậu vẫn giữ giọng ấy. Gia đình ba má Hậu, như thế, đã xa quê ở đồng bằng sông Cửu
Long 21 năm, đã từng ăn 21 cái tết Hà Nội, xa ngôi nhà của ông bà nội cũng chừng
ấy năm. Song dù ở đâu trên đất Bắc trong 21 năm dằng dặc xa quê ấy, thì “ngày
Tết của gia đình tôi bao giờ cũng thấm đẫm hương vị Tết Nam Bộ. Hương vị ấy có
một đặc trưng rất riêng, ấy là mùi bánh tét gói bằng lá chuối”…
Ngày còn bé dại, sinh ra và sống cả thời
niên thiếu ở Hà Nội, có thể Hậu không thể trông thấy, và đặt chân lên đất quê
cha quê mẹ, nhưng ông Bảy Bạch – đạo diễn sân khấu Nguyễn Ngọc Bạch - cha Hậu,
từng là trưởng đoàn Cải lương Nam Bộ, sau là trưởng Đoàn kịch Nam Bộ, và má Hậu, ở Hà Nội, nhưng đã
thiết lập chắc chắn trong gia đình một lối sống, trong một bầu không khí đặc sệt
chất Nam Bộ, Nam Bộ đến từng chi tiết nhỏ của việc ăn uống ngủ nghỉ, học hành,
sinh sống và nghĩ suy… của những cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc. Sồng trên đất
Bắc, với tâm thế chia đôi “Ngày Bắc đêm Nam”, với tâm trạng, mà thi sĩ Tế Hanh
từng thảng thốt nhớ thương: “Đêm nằm chiếu chẳng ấm lưng / Bữa ăn đôi đũa ngập
ngừng so le”. Ông Bảy Bạch, cha Hậu, biết con gái mê nghệ thuật cải lương
và kịch, nhăm nhe thi vào nghề sân khấu, nhưng ông không khuyến khích Hậu theo nghề
cha. Rốt cuộc, Hậu tự quyết định học Khảo cổ học tại Trường Đại học Tổng hợp TP
HCM, và sau này đạt học vị Tiến sĩ khảo cổ học, và tập trung hành nghề khảo cổ ở
vùng văn hoá Nam Bộ.
Cuốn sách mới nhất này của Hậu “Thương những miền qua” là một
trong chuỗi sách tản văn, tạp bút mà Hậu từng xuất bản hàng chục đầu sách, kể từ
cuốn tạp bút đầu tiên: “Đi và Tìm trong Đất”, năm 2008. Song song với chuỗi
sách này là chuỗi sách chuyên khảo về khảo
cổ học, mà người đọc tôi thích nhất hai cuốn: Khảo cổ học bình dân Nam Bộ (viết
chung, 2010). Và “Đô thị Sài Gòn – TP HCM - Khảo cổ học và bảo tồn di sản ( xuất
bản năm 2017, tái bản 2019).
Truyền thống gia đình Nam Bộ cấp cho Hậu một tình yêu quê hương
hồn nhiên, thương về cội rễ, ngay từ thuở bé ở Hà Nội, dù Hậu chưa từng được thấy
quê nội và quê ngoại. Nghề khảo cổ học cho Hậu những thấm thía nghĩ suy về giá
trị của những cổ vật trong lòng đất ở ngay trong lòng đô thị Sài Gòn và vùng
ven đô Sài Gòn, xa hơn là những vùng miền đất cổ ở đồng bằng sông Cửu Long. Và
trên tất cả là những chuyến đi về đầy niềm thương nỗi nhớ của chủ thể viết Nguyễn
Thị Hậu. Và mặc nhiên, đã dẫn đến cái viết chẳng thể đặng đừng của Hậu, và dẫn
đến cái đọc, cũng có thể chẳng thể đặng đừng của người đọc Nam Bộ, và không chỉ
Nam Bộ, đã sống và đã yêu mảnh đất đẹp phong nhiêu và độc đáo này, với Sài Gòn
– viên ngọc Viễn Đông…
Vậy theo tôi, người đọc có quyền giải mã cái đọc của mình đối
với loại sách “tản văn, tuỳ bút “ này của Hậu, có lẽ chỉ trên một chữ thương
(như từ khoá), mà chính Hậu đã từng định nghĩa, từng rưng rưng viết, đầy cảm
xúc bộc trực: “Nếu ai đó chỉ nói với mình một câu giản dị: anh thương em thì
mình sẽ bỏ tất cả mà theo”.
Nói vậy mà có phải vậy không, hỡi cô em tôi, Hậu kc (Hậu khảo
cổ)?
Nhưng tôi tin cái chắc là Hậu đã nhiều chuyến đi đi về về
miền Tây Nam Bộ tấp nập ghe thuyền trên sông nước, trong bát ngát cảm xúc của
chữ thương, khiến ngay cả Hậu cũng nao lòng, “mới thấy thương quê mình gì
đâu”. Và Hậu tự mình vỡ lẽ - như trong một tản văn của Hậu mà tôi đọc đã lâu:
“chữ thương của miền Tây ngọt ngào, nặng tình nặng nghĩa biết bao, bởi
vì thương không chỉ là thương yêu cha mẹ anh em, mà còn là thương
nhớ người dưng, thương xót thân phận ghe xuồng trên sông, thương những gì gắn
bó cả đới như thương chính mình. Không ngưng được nỗi lòng, Hậu thổn thức
viết tiếp: Chữ thương bao dung nhân hậu, nhẹ như hơi thở mà người miền Tây
chỉ buông ra khi dằn lòng không được. Bởi vậy, người đọc nào cũng có thể động
lòng mà cùng theo Hậu thương về miền Tây, cùng Hậu thương không để
đâu cho hết, những con nước lớn, nước ròng, chiếc xuồng chiếc ghe xuôi ngược miên
man trên sông rạch, thương xóm, thương làng trải dài ven sông yên
bình, thương những vườn cây trĩu trịt hoa trái miệt vườn, những con đường
rợp bóng cây xoài, cây dừa và những ngôi chợ miền Tây sầm uất bán mua cả trên đất
bằng lẫn trên sông nước…Tất cả nặng trĩu trong tâm thế người viết Nguyễn Thị Hậu,
đong đầy trong một chữ thương… khiến người đọc cũng vì chữ thương ấy
mà cầm lòng không đậu!
Vậy thì bạn đọc thân mến, còn chần chờ gì nữa mà không cầm
lấy chữ thương ấy để đọc sách của Hậu, để được nặng lòng thương nhớ con
người và vùng đất Nam Bộ, vốn đậm đà tinh thần Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu,
giữa đường thấy sự bất bằng chẳng tha! như Hậu khảo cổ đã viết thật cảm
động trong một tùy bút của sách này: “Người Sài Gòn và tinh thần Lục Vân Tiên”…
Sai gon Pearl tháng 3.2023, viết tặng Hậu khảo cổ
PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái
Hình bìa: NAG Minh Hòa, thiết kế: Huy Khôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét