Tạp bút,
Nguyễn Thị Hậu
Đi về miền Tây,
dọc đường qua Cần Thơ, Hậu Giang, An Giang, Đồng Tháp… sẽ thấy một số
nhà máy xay lúa nằm ở ven sông, dấu hiệu nhận biết từ xa là những
băng chuyền hay *vòi hút* lắp đặt sát bờ sông, chuyển lúa gạo từ ghe
sang kho hay ngược lại. Trong mỗi khu vực cùng với hệ thống nhà máy xay
là hệ thống kho chứa lớn còn gọi là Sìlô. Từ những năm 1970 vùng
tứ giác Long Xuyên đã được xây dựng nhiều sìlô trữ lúa vào vụ thu
hoạch, giảm thiểu đáng kể những thiệt hại sau thu hoạch và còn chứa
gạo thành phẩm để dự trữ hoặc xuất khẩu. Những nhà máy và sìlô
như thế đã có ở Nam bộ từ rất lâu rồi.
Má tôi kể, ngày trước ngọai tôi có một nhà máy xay lúa ngay con rạch Cái Tôm
ở Hòa An, Cao Lãnh. Hồi đó ông cố (là ông nội của má) lặn lội ra
tận ngoài Trung mua lại cái nhà máy xay này, tháo dỡ rồi thuê ghe chở
về Cao Lãnh ròng rã hàng tháng trời. Ông ngoại tôi là con lớn nhứt
nên lãnh phần điều hành nhà máy đầu tiên. Vài năm sau ăn nên làm ra,
ông cố tôi xây thêm 2,3 nhà máy nữa, cũng ở Cao Lãnh, giao cho các ông
chú của tôi quản lý.
Những nhà máy này lúc đầu chạy bằng máy hơi
nước dùng trấu đốt, đến cuối thập niên 1960 chuyển sang chạy bằng dầu. Cạnh nhà máy
là những đống trấu rất lớn, những đống tro xám đen cũng rất lớn. Tro
bán làm phân bón, trấu dùng làm chất đốt cho những ông lò đắp bằng đất
rất tiện dụng và tiết kiệm vì chỉ cần một cửa cho trấu vào nhưng
lửa và nhiệt có thể dùng cùng lúc nhiều bếp. Cũng như những ngôi nhà miệt vườn Nam
bộ, nhà bếp
của ngoại cũng có một bếp lò như vậy đặt ở gian giữa rộng rãi, sáng sủa, cửa
ra vào hai cánh bằng gỗ luôn rộng mở. Cửa sổ sát mé con rạch Cái Tôm đón từng
cơn gió mát rượi ngày hai lần nước lớn, lúc nước ròng thoảng mùi bùn non và
tiếng cá quẫy… Ngay cửa bếp là sàn nước rửa chén bát và làm đồ ăn. Bước vô, một
đầu gian bếp là khuôn bếp đóng bằng cừ tràm lâu ngày đen
bóng. Cạnh đó là “ông lò” có 3 miệng bếp đều đặt
miếng cà-ràng (vòng bằng gang) để chặn khói giữ cho nồi chảo không
bị ám khói đen, rồi ống thổi, kẹp gắp củi than, miếng lót nhắc nồi... Phía trên ông lò có mái tôn nối ống khói. Phía dưới
khuôn bếp xếp củi đã chẻ nhỏ, từng bó lá dừa chặt đầu đuôi bằng nhau, gọn gàng.
Đi nhiều
vùng miền trong nước mới nhận thấy gian bếp của những gia đình Nam bộ thật đặc
biệt. Bước vào bếp có thể nhận ra sự vén khéo của người
phụ nữ trong gia đình vì nhà bếp luôn sạch sẽ, thoáng mát. Đồ đạc sắp xếp thật
tiện lợi, nhất là khuôn bếp đứng, khi nấu nướng không mất công ngồi xuống, đồ dùng
đặt để đúng tầm tay, dãy nồi xoong luôn chùi rửa sạch bong, người phụ nữ khi
làm bếp cũng thong thả ung dung hơn…
Sài Gòn – Chợ Lớn nay còn một vài dấu tích
những nhà máy – kho chứa – bến cảng xuất khẩu gạo có từ cuối thế
kỷ XIX mà ta có thể thấy dọc trên
kênh Tàu hủ, rạch Chợ Lớn. Qua cầu Xóm củi (còn gọi
là cầu Chà và vì khu vực này xưa có nhiều người gốc Ấn), quẹo phải sát chân cầu
đi cặp theo kênh Tàu Hũ là đường bến Bình Đông. Đi mãi đi mãi… tới đường bến Mễ
Cốc. Đi hòai đi hòai… đến đọan kênh Tàu Hũ gặp Rạch Cát thì hết đường. Đọan bến
Bình Đông phía bên quận 5 quận 6 là đại lộ Đông Tây, còn bến Mễ Cốc phía bên
kia là Phú Định – một làng cổ thuộc xóm lò gốm Sài Gòn xưa. Ngỡ ngàng khi gặp
một nhà quê yên bình đến thế. Đám dừa nước rậm rạp, trên chiếc ghe đậu nhỏ bếp
cà ràng đỏ lửa chiều, khói quẩn trên ngọn dừa cao cao in bóng xuống dòng kinh…
Vùng này còn mấy cây cầu sắt cũ từ thời Tây, chênh vênh mỗi cây mỗi kiểu, lót
ván gập ghềnh, nay chỉ dành cho người đi bộ. Chắc không lâu nữa sẽ thay bằng
những cây cầu bê tông vững chắc nhưng vô
hồn bởi chúng rất giống nhau, ngang bằng, đơn điệu.
Hồi xưa, trên bến kinh này từ trước ngày rằm tháng chạp ghe chở “ông lò”
(bếp lò đất) đã về. Ngày 23 cúng ông Táo nhà nào nhà nấy đốt than trong ông lò
mới mong cho nhà cửa luôn ấm êm, hạnh phúc. Sau ngày Ông Táo những “ông lò” cũ
đem đặt ngòai vườn, dưới gốc cây hay ven hàng rào… lâu ngày ông lò hóa thổ, trở
về với đất, như con người… Những chiếc ghe lớn chở than đước ngày nào cũng cặp
bến, lái mua than cả cần xé chở đi khắp thành phố cũng có mà người mua lẻ vài
ba ký cũng có. Mấy anh bán than mặt mày đen nhẻm, đôi mắt như biết nói, mải
miết vác than chọn than tốt cho người mua. Còn ghe chiếu nữa, chất đầy chiếu
bông chiếu trắng đương bằng những cọng lát tròn bóng thơm mùi gió chướng mùi
đất phèn miền Tây… Trưa vắng khách văng vẳng câu vọng cổ nghe buồn chí xứ “chiếu này tôi chẳng bán đâu, tìm cô không
gặp… tôi gối đầu mỗi đêm…”. Mấy năm rồi vắng bóng ghe than ghe chiếu… mà
phải thôi, bây giờ ở thành phố còn mấy nhà chụm than bếp lò, mấy nhà còn trải
chiếu Cà Mau…
Sau 23 tháng chạp là ghe trái cây về san sát, chuyển hàng lên bến khỏi cần
bắc ván làm cầu. Nhưng độc đáo nhứt ở bến Bình Đông là chợ mai, tắc kiểng dài
suốt con đường. Không hiểu sao nhìn chợ hoa Tết bao giờ cũng thấy buồn… nghĩ
đến trưa 30 chợ hết, tiếc hoa, thương người trồng hoa, tội người bán hoa… Từ năm ngóai ghe kiểng về không đậu bên kia vì bến Hàm
Tử đã giải tỏa làm đại lộ Đông Tây. Vài năm nay bến
Bình Đông là bến chính. Đọan đường hẹp lổn nhộn ổ gà, dãy nhà phố một trệt một
lầu mái ngói thâm đen tường vôi loang lổ. Tầng trệt còn buôn bán mà những cánh
cửa gỗ xộc xệch trên lầu một hình như đã lâu lắm không được mở ra…
Bạn bè ngồi lai rai trong
quán nhỏ, nhìn qua bên kia nhà cao tầng đại lộ 8 làn xe vun vút chạy, nhìn lại
bên này cầu cũ, kinh đen, nhà xưa, ghe nhỏ… Rồi tránh nhìn nhau. Cảm giác như
thấy người thân yêu xa dần mà không có cách gì níu giữ…
Sài Gòn 2011-2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét