CÔN ĐẢO MIỀN XANH BẤT TẬN GIỮA BIỂN KHƠI

 https://nguoidothi.net.vn/con-dao-mien-xanh-bat-tan-giua-bien-khoi-49617.html?fbclid=IwY2xjawMniTxleHRuA2FlbQIxMQABHs8KTDTEScHTeRSE8a5RD2LMbINZfcA0WZM8pX5DCjIXAsjrkudkfYD-xXTq_aem_QHku6NoicT3PfT6tUReVYg

Nguyễn Thị Hậu

Nhiều năm trước tôi từng vài lần đến Côn Đảo vì công việc. Ngày ấy đến với Côn Đảo chỉ có thể bằng tàu sắt lênh đênh trên biển mười mấy tiếng. Vào mùa biển động tàu phải ngừng chạy, hàng tuần không có thực phẩm và những hàng thiết yếu chuyển ra đảo. Khi ấy Côn Đảo là một nơi buồn hiu hắt từ ngày này qua tháng khác, chưa có du khách mà chỉ những người có việc đến đây vài ngày, hay vài tuần, rồi lại vội vã ra đi...

Cảnh quan trên đảo chỉ là những hàng bàng cổ thụ luôn đứng im trầm mặc, những khu nhà tù rộng lớn xám xịt, nghĩa địa Hàng Keo, Hàng Dương lạnh lẽo... Điện bằng máy phát chỉ có vài tiếng trong ngày, khoảng 7 giờ tối cả đảo chìm trong bóng đêm, trừ vài ngày có trăng. Trong không gian tĩnh lặng chỉ thấy những hình khối đen sì bất động. Ngoài tiếng sóng biển rì rầm nếu lắng nghe thật kỹ dường như vẫn có những tiếng thì thầm đâu đó...

Côn Đảo trong lịch sử

Giai đoạn trước công nguyên, từ Côn Đảo vào vùng cửa biển Vũng Tàu - Cần Giờ đã có dấu tích khảo cổ học của các cộng đồng cư dân tiền sử sống ven biển, đó là các khu mộ chum với nhiều đồ tùy táng bằng đồ gốm, đá quý, vàng, sắt... như Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ (Cần Giờ), Giồng Lớn (Long Sơn – Vũng Tàu) và Cồn Miếu Bà, Cồn Hải Đăng (Côn Đảo)… Hiện vật ở các di tích này có nguồn gốc khác nhau phản ánh mối quan hệ giao lưu văn hóa đa dạng, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống trao đổi thương mại trên đường biển ở khu vực Đông Nam Á và rộng hơn, vào khoảng 2.500 năm cách ngày nay.

 Đầu thế kỷ XIX sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hòai Đức đã ghi chép về cư dân và sản vật Côn Đảo như sau:

“Ở giữa biển Đông, từ cửa cảng Cần Giờ chạy thuyền ra biển theo hướng đông mặt trời mọc 2 ngày mới đến. Đảo lớn 100 dặm, có ruộng núi trồng lúa, bắp, khoai, đậu, nhưng cũng không nhiều, nên thường phải mua gạo ở Gia Định mới đủ dùng. Thổ sản ở đây là ngựa và trâu, núi không có cọp beo. Dân ở đảo tự kết lại làm binh sĩ, gọi Tiệp Nhất, Tiệp Nhị, Tiệp Tam ba đội, trực thuộc đạo Cần Giờ, có đủ khí giới để giữ gìn đất ấy phòng quân cướp hung dữ Đồ Bà, không cần kêu gọi chỗ khác đến giúp. Dân lính ở đấy thường lấy yến sào, đồi mồi, vích, quế hương, mắm, ốc tai tượng, rồi theo mùa mà dâng nộp; còn lại thì đánh bắt hải sản như cá, tôm để sinh sống. Quả cau ở đây to, vỏ màu hồng, vị lại ngọt thơm, cứ đến đầu mùa xuân, lúc cau ở Gia Định chưa kết quả, thì cau ở đây đã dùng được, người ta chở vào bán với giá rất cao”.

Như vậy, nếu Cần Giờ từng là “cảng thị sơ khai” thời tiền sử thì Côn Đảo được coi là “tiền cảng” của cảng Bến Nghé – Gia Định thời Nguyễn. Vị thế quân sự quan trọng của Côn Đảo là trạm tiền tiêu, Cần Giờ là cửa ngõ của toàn bộ khu vực Nam Đông Dương. Vì vậy, trong lịch sử giữa Côn Đảo, Cần Giờ và vùng/thành Gia Định đã có mối quan hệ chặt chẽ về kinh tế và quân sự.

Năm 1861 quân đội Pháp chiếm Côn Đảo, ngay sau đó đã biến Côn Đảo thành nơi giam giữ các phạm nhân chống Pháp. Từ 1954 chính quyền Việt Nam Cộng hòa tiếp tục phát triển hệ thống nhà tù nổi tiếng khắc nghiệt và nơi lưu đày chủ yếu là tù chính trị. Dưới chế độ nhà tù Côn Đảo, khoảng 20.000 người Việt Nam thuộc nhiều thế hệ đã chết và được chôn cất tại Nghĩa trang Hàng Dương, Hàng Keo và nhiều khu mộ khác.

Cũng từ quá trình biến hòn đảo xinh đẹp bình yên thành một “địa ngục trần gian”, dân cư sống trên đảo bị chính quyền buộc phải đi nơi khác sinh sống, vì sợ tù nhân vượt ngục sẽ được người dân che chở và giúp đỡ vượt biển trở về đất liền. Từ đó trên đảo chỉ còn nhà tù, tù nhân và những người phục vụ trong bộ máy chính quyền. Các làng chài biến mất, cộng đồng cư dân di dạt vào đất liền, nghề biển và nghề thủ công chế biến sản phẩm từ rừng và biển mai một dần... Một giai đoạn “lịch sử văn hóa” của cộng đồng cư dân trên đảo bị đứt gãy, thay vào đó là lịch sử đẫm máu dài hơn 100 năm mà bao nhiêu chứng tích còn hiện diện rõ ràng tại Côn Đảo.

Từ sau 1975, Côn Đảo được biết đến là nơi hội tụ giữa bảo tồn thiên nhiên và chứng tích lịch sử nổi tiếng.

Môi trường xanh – du lịch xanh ở Côn Đảo

Sau nhiều năm, nay trở lại thấy Côn Đảo đã khác xưa. Từ trên máy bay nhìn xuống thấy cả hòn đảo sáng sủa tươi tắn hơn nhiều. Dưới ánh nắng chói chang, cả hòn đảo là một màu xanh thắm, được viền màu xanh biển càng xa bờ càng xanh biếc. Con đường từ sân bay Cỏ Ống về trung tâm đảo trải nhựa bằng phẳng, một bên là rừng nguyên sinh một bên là bờ biển và những hòn đảo nhỏ thuộc đảo lớn Côn Sơn. Hiện nay Côn Đảo đang tích cực triển khai “Chuyển đổi xanh”. Thực ra quá trình này đã được thực hiện từ nhiều năm trước, đầu tiên là việc hạn chế rác thải nhựa trên đảo. Du khách đặt chân đến đảo là được biết ngay những thông tin liên quan đến bảo vệ môi trường ở đây. Tại các khách sạn, cơ sở lưu trú, trong các công sở, đi khắp đảo hầu như không nhìn thấy rác thải là bao ni lon, chai nhựa ly nhựa hay hộp xốp... Tuy nhiên tại các cửa hàng, các chợ vẫn còn sử dụng loại bao bì này.

 So với nhiều đặc khu khác, Côn Đảo đang giữ một lợi thế cạnh tranh quan trọng: môi trường xanh và sạch theo hướng bền vững! Vì vậy chính quyền và người dân Côn Đảo đều nghiêm túc thực hiện việc loại trừ rác thải độc hại, do nhận thức rõ sự cần thiết, thậm chí tính cấp thiết của việc bảo tồn môi trường tự nhiên. “Chuyển đổi xanh” ở đặc khu Côn Đảo bắt đầu từ bảo toàn môi trường tự nhiên, cắt giảm phát thải, chuyển đổi đồng bộ phát triển kinh tế – xã hội – hạ tầng, nhằm tránh cho Côn Đảo nguy cơ tổn thương tự nhiên và văn hóa từ quá trình “hiện đại hóa”.

Từ lợi thế môi trường sinh thái, du lịch trở thành kinh tế ngành quan trọng nhất của Côn Đảo, định hướng phát triển du lịch sinh thái – lịch sử – tâm linh, với quy mô vừa phải để giữ gìn môi trường và bản sắc địa phương.

Chủ đề thu hút du khách nhất là du lịch lịch sử – tâm linh. Tuyến điểm chính là viếng thăm hệ thống di tích Nhà tù Côn Đảo, cầu tàu 914, nghĩa trang Hàng Dương (nơi an nghỉ của liệt sĩ Võ Thị Sáu và nhiều nhà cách mạng), nghĩa trang Hàng Keo – nơi nhiều tù nhân đã chết trong quá trình lao động khổ sai... Hiện nay các di tích nhà tù thời Pháp, thời Mỹ đều được trùng tu, tôn tạo tốt, giữ được nguyên trạng các trại giam và cảnh quan. Hai nghĩa trang lớn xây dựng khang trang, sạch sẽ, được chăm chút chu đáo, là nơi tổ chức nhiều hoạt động chính trị như lễ tưởng niệm, dâng hương, “đền ơn đáp nghĩa”... thu hút đông khách trong và ngoài nước, đặc biệt vào các ngày lễ lớn.

Hoạt động du lịch sinh thái – khám phá luôn được kết hợp cùng du lịch tâm linh. Bao gồm các điểm đến trên đảo như Vườn quốc gia Côn Đảo, trekking rừng, leo núi, quan sát chim, động vật hoang dã. Các tour khai thác biển như lặn ngắm san hô, xem bò biển, câu cá biển... Đặc biệt tour xem rùa biển đẻ trứng (Hòn Bảy Cạnh, Hòn Cau), và sau đó là tour của các tình nguyên viên mang thả rùa con về với biển. Qua những hoạt động du lịch gắn với thiên nhiên, nhiều du khách cho biết nhận thức bản thân về giá trị của tài nguyên rừng, biển được nâng cao, ý thực bảo vệ môi trường được chuyển biến thành hành động thiết thực.

Đồng thời với những chương trình du lịch cho số đông, các cơ sở du lịch nghỉ dưỡng cao cấp đã hiện diện gồm các resort, khách sạn 4–5 sao như Six Senses Côn Đảo, Poulo Condor Boutique, The Secret Côn Đảo, Sài Gòn tourist Côn Đảo... và sớm trở thành thương hiệu được nhiều khách hàng cao cấp biết đến tại Côn Đảo. Không chỉ là không gian yên tĩnh, trong lành, cảnh quan biển – núi vô cùng quyến rũ, mà các khách sạn này còn nhiều dịch vụ kết hợp chăm sóc sức khỏe, yoga, thiền, ẩm thực hữu cơ... Mang đến một kỳ nghỉ dưỡng trọn vẹn, bổ ích cho du khách cả về thân thể và tinh thần.

Du lịch cộng đồng đang trở thành một hướng phát triển quan trọng ở Côn Đảo. Tuy dân số hiện nay tại Côn Đảo chỉ hơn 11 ngàn người, nhưng đó là nhân tố đầu tiên để xây dựng du lịch cộng đồng. Các hình thức như lưu trú homestay, cùng trải nghiệm đời sống ngư dân, tham gia một số nghề thủ công như chế biến hải sản, làm mứt, bánh, kẹo từ hạt bàng, tham quan cơ sở nuôi trai lấy ngọc làm đồ trang sức... Những “đặc sản” OCOP địa phương đang dần lấy lại “thương hiệu” sau hơn trăm năm biến mất.

Đi tìm chìa khóa mở cửa “thiên đường” Côn Đảo

Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và quá trình lịch sử đã tích tụ ở đây những di sản quý giá đồng thời cũng dễ bị tổn thương và rất khó khôi phục hay bù đắp. Nhất là hiện nay Côn Đảo trở thành đặc khu thuộc TP. Hồ Chí Minh – trung tâm kinh tế lớn, nơi mà di sản văn hoá và môi trường thiên nhiên luôn có nguy cơ chịu tác động mạnh mẽ do sự phát triển “nóng” về kinh tế và quá trình đô thị hoá.

Từ góc nhìn mối quan hệ gắn bó giữa Hệ sinh thái tự nhiên đặc hữu biển – đảo – rừng – núi của Côn Đảo, với quá trình lịch sử - xã hội đặc thù, và vị thế gắn bó với thành Gia Định xưa - TP. Hồ Chí Minh nay, có thể nhận biết ba đặc trưng lịch sử - văn hóa của Côn Đảo cần được bảo tồn và phát huy đúng hướng, phải được kiểm soát chặt chẽ về tốc độ và mức độ. Đó là:

Một, tài sản lớn nhất của Côn Đảo chính là thiên nhiên nguyên sơ, vừa mang tính đa dạng sinh học cao, vừa có nhiều loài và quần xã mang tính đặc hữu, nhờ vị trí địa lý tách biệt, khí hậu nhiệt đới hải dương và lịch sử tiến hóa lâu dài. Côn Đảo không có đất sản xuất nông nghiệp, không có nguồn khoáng sản lớn, tuy không là đầu mối giao thông chiến lược nhưng quan trọng về quân sự. Bù lại, Côn Đảo có một quần thể tự nhiên rừng – biển hiếm có ở Việt Nam, đây là “vốn tự nhiên” quý giá nhất và gần như không thể tái tạo nếu bị mất đi. Vì vậy, tài nguyên tự nhiên là nền tảng của sinh kế cộng đồng và phát triển kinh tế - xã hội của Côn Đảo.

Hai, Côn đảo là vùng văn hoá – lịch sử tâm linh. Thiết chế xã hội đặc thù là hệ thống nhà tù hàng trăm năm tại đây làm cho không gian Côn Đảo chứa đựng yếu tố tâm linh. Trên thực tế tại Côn Đảo đã có hơn hai mươi ngàn người hy sinh, trong đó phần lớn chưa được tìm thấy di cốt, phần khác chưa xác định được danh tính... Đấy còn là “món nợ” của thế hệ sau đối với tiền nhân, cần phải ứng xử tử tế với di sản thiêng liêng này.

Tính thiêng còn đến từ văn hóa dân gian Côn Đảo qua việc thờ cúng Bà Phi Yến và Liệt sĩ Võ Thị Sáu. Bà Phi Yến và Cậu Hoàng Cải là nhân vật truyền thuyết được tích hợp với tín ngưỡng “thờ Bà thờ Cậu” phổ biến của ngư dân Nam bộ, lễ giỗ bà tổ chức hàng năm tại An Sơn Miếu nay là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Liệt sĩ Võ Thị Sáu hy sinh khi còn rất trẻ, được an táng tại Nghĩa trang Hàng Dương cùng hàng ngàn người Việt Nam yêu nước. Ngôi mộ của liệt sĩ và nghĩa trang này cũng trở thành nơi “hành hương” tâm linh, tín ngưỡng mới của du khách trong nước.

Ba, Không gian xã hội – cộng đồng bình yên, chất phác. Do điều kiện lịch sử - xã hội nên dân cư Côn Đảo không nhiều và không phát triển kinh tế biển. Thành phần dân cư khá thuần nhất, hiện nay ngoài cán bộ, công chức thì người dân sống bằng buôn bán nhỏ, dịch vụ - du lịch, chế biến thực phẩm... Lối sống thuần phác, tuân thủ luật pháp tốt, ứng xử với du khách khá giản dị, hiền hòa. Đây cũng là một lợi thế trong du lịch, giống như trường hợp phố cổ Hội An nhiều năm trước.

Đây là ba chiếc “chìa khóa vàng” sẽ mở ra những cơ hội để biến Côn Đảo trở thành một “thiên đường du lịch” của Việt Nam và khu vực. Muốn có tương lai bền vững, từ hôm nay phải giữ được thiên nhiên và văn hóa, việc định vị lại hình ảnh Côn Đảo như một khu vực du lịch nghỉ dưỡng, học tập và bảo tồn sinh thái có kiểm soát sẽ giúp Côn Đảo phát triển kinh tế bền vững. Hiện nay, đặc khu Côn Đảo trực thuộc TP. Hồ Chí Minh (mới) là sự tiếp nối một truyền thống lịch sử, đồng thời cũng mang lại cho Côn Đảo một vị thế quan trọng mới.

Côn Đảo, 10.8.2025







NGÀY MAI ĐANG BẮT ĐẦU TỪ NGÀY HÔM NAY


Đất nước bước vào mùa thu đặc biệt, mùa thu của 80 năm Dân chủ cộng hòa. Trong gia đình tôi ngày 2/9/1945 được gọi là Ngày Độc Lập. Vì đó là ngày cha mẹ chú bác tôi lên đường đi theo “tiếng gọi sơn hà” giành nền độc lập cho tổ quốc.
Nhiều người Việt Nam thời đó học hành rất giỏi, dành được học bổng của chính quyền Pháp, khi trở thành bác sĩ, thầy giáo, kỹ sư, luật sư, công chức cũng được ưu đãi vật chất… Nhưng cũng nhờ có học nên những người trí thức hiểu rằng không ai có quyền áp bức bóc lột ai, họ tiếp nhận văn minh phương Tây để hiểu về Tự do, Bình đẳng, Bác ái giữa các quốc gia. Và họ, bằng nhiều hình thức việc làm khác nhau, đã tham gia vào cuộc đấu tranh chống chính quyền thuộc địa vì mục tiêu Độc lập Dân tộc. Đó là ước nguyện và niềm tin của người Việt Nam trong suốt hai cuộc kháng chiến.
Sau khi hòa bình – thống nhất vào tháng 4/1975, hơn mười năm sau cả nước vật vã trong “cơn bệnh ác tính” thời bao cấp. Đến nay, nếu tính từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới vào năm 1986 thì cũng gần 40 năm trôi qua.
Khi công cuộc Đổi mới được khởi xướng, tôi là một giảng viên trẻ. Cuộc sống quá thiếu thốn vất vả nên chúng tôi cũng lam lũ việc chân tay như mọi người. Ai cũng phải làm thêm việc phụ - nhưng lại là việc chính để mang lại chén cơm tấm áo cho con cái. Thôi thì không thiếu “ngành nghề” gì: nuôi heo trong nhà tắm, nuôi cá trê phi dưới gầm giường, dán bao thơ, túi giấy cho bưu điện, đóng sách bằng tay cho nhà in, bán báo, chở hàng thuê, bỏ mối hàng... khá hơn thì có máy may để may đồ gia công, hay tham gia các “tổ hợp” làm hàng tiêu dùng kiểu “Hồng kông bên hông Chợ Lớn”... Vài ngày lại xếp hàng mua từ cây kim sợi chỉ đến cân gạo, bó củi, mớ rau…
Lúc đó tôi chưa hiểu hết khái niệm “Đổi mới” là thế nào, thể chế cơ chế là gì? Nhưng là một người phụ nữ, tôi nhận ra sự “đổi khác” bắt đầu từ chén cơm của con có thêm miếng thịt miếng cá, ngoài chợ hàng hóa nhiều hơn và dễ mua hơn, không còn phụ thuộc vào thái độ vui buồn của “cô mậu dịch”. Đổi khác từ mảnh ruộng miếng vườn của ông bà ở nhà quê được tự do trồng trọt và tiêu thụ nông sản... Người dân lúc ấy, có lẽ không cần biết đến những khái niệm to tát, nhưng luôn nhìn nhận rất rõ từng đổi thay hàng ngày: có hàng hóa ngoài chợ, có cơ hội làm ăn, cuộc sống “dễ thở” hơn, và nghĩ rằng cứ như vậy thì đời con mình sẽ khá hơn hôm nay. Bao nhiêu sự “đổi khác” nho nhỏ hàng ngày, thiết thực với từng người dân tạo thành sự “Đổi mới” của đất nước, mà sau này hay được nhắc đến bằng cụm từ “chấm dứt bao cấp và mở cửa”. Có lẽ đó là hạnh phúc giản dị cụ thể mà mỗi người dân đều mong đợi một “cơ chế thể chế” mang lại.
***
Có thể nói, “đổi mới” mang lại sự thay đổi đời sống vật chất vô cùng nhanh chóng! Bốn mươi năm ấy thế hệ chúng tôi được trải nghiệm vô vàn những hiện tượng riêng, rất “Việt Nam”. Ra khỏi chiến tranh, từ một đất nước thiếu ăn trở thành quốc gia xuất khẩu lúa gạo, từ đất nước mà hàng tiêu dùng thiếu thốn trầm trọng nay đã có mặt trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Từ tài sản quý nhất của mỗi gia đình là chiếc xe đạp, nay nhiều người có xe hơi, điện thoại thông minh phổ biến và can dự thường xuyên vào cuộc sống mỗi người... Công nghệ của đất nước đang được ứng dụng thành tựu trí tuệ nhân tạo trên thế giới.
Bốn mươi năm trôi qua, kinh tế - xã hội nước ta từ nền “kinh tế bao cấp” đã “đổi khác”, tính chất thị trường ngày càng rõ hơn. Nhưng cũng không thể không nhận thấy, những cái Khác cái Mới thực sự vẫn còn ngập ngừng chưa tới? Đã qua một phần tư thế kỷ 21, cuộc sống bây giờ như con tàu cao tốc hiện đại nhưng vẫn chạy trên tuyến đường ray cũ kỹ, qua những vùng quê nghèo nàn dù hành trình có dừng ở vài nhà ga mới. Những người điều khiển chưa nắm vững thiết bị hiện đại của con tàunên còn xảy ra trục trặc. Hành khách có vẻ vừa thích lại vừa ngại “cái mới”, nhiều người chưa thoát khỏi tâm lý ngàn đời luôn đề phòng bất trắc, trong sự phấn khởi vẫn hiện diện nỗi lo sợ, hoài nghi...
Trong tình trạng đó “đoàn tàu hiện đại” chưa thể chạy hết công suất, vì còn lực cản, vì chưa an toàn, vì chưa đủ tự tin, chưa có sự đồng thuận... Tất nhiên, như vậy không thể không mang lại sự đổi mới thực sự như mong muốn.
Trong tiến trình lịch sử, những công cuộc đổi mới không chỉ là lựa chọn mà là bước phát triển tất yếu của nhiều quốc gia. Sự đổi mới có thể bằng nhiều phương thức (mà chiến tranh là tàn khốc nhất, có thể mang lại sự đổi thay nhưng hậu quả vô cùng lâu dài và nặng nề). Quá trình tiếp nối những đổi thay trên thế giới thể hiện quy luật xã hội. Thế kỷ 21 được vận hành trên cơ sở những thành tựu của công nghệ và dữ liệu Lớn (tính khách quan), tuân thủ pháp quyền và hiệu quả (tính chủ quan). Đó là một quy luật mà mỗi thể chế cũng như mỗi con người ở “thời đại số” – dù tuổi lão như thế hệ tôi – cần nhận biết.
Thực hiện đúng quy luật sẽ mang lại hiệu quả cho bộ máy và sự vận hành của chính quyền, mang lại những lợi ích cho người dân thụ hưởng. Việc tinh giản và phân cấp chính quyền địa phương thể hiện cơ chế hành chính hướng tới mối quan hệ thực chất giữa chính quyền và người dân, hướng đến mục tiêu quản trị nhà nước dần chuyển từ xin – cho sang phục vụ, từ mệnh lệnh hành chính sang đối thoại và tích hợp dữ liệu. Đồng thời, xây dựng hệ thống pháp luật và chính sách phù hợp thực tiễn, minh bạch và được giám sát bởi người dân.
Sự đổi mới không hề dễ dàng. Nếu năm 1986 đổi mới không thể chậm trễ vì tình trạng trì trệ đã dẫn đến những hậu quả nặng nề đối với từng người dân, kéo cả nước “đi lùi hàng thập kỷ”, thì công cuộc đổi mới hiện nay càng không thể chần chừ, khi mà thế giới đã bước vào “kỷ nguyên số” với tốc độ được tính từng phần ngàn giây, đồng thời cũng đặt ra thách thức đối với thế giới hiện đại là sự minh bạch, công khai, nhân văn và công bằng. Việt Nam nếu mãi câu nệ, níu kéo “sự đặc thù” của thế kỷ trước, thì đó là cách nhanh nhất kéo quốc gia mình ra khỏi sự phát triển chung của nhân loại.
***
Thế hệ chúng tôi tự nhận là thế hệ “bản lề”, vì sinh ra trong thời chiến và lớn lên trong thời bình, vất vả từ thời bao cấp sang những khó khăn thời mở cửa đổi mới... Đó là những ký ức không phai, nhưng chắc chắn không ai muốn trở về thời gian đó. Có thể nói chúng tôi chứng kiến, tham gia và góp phần tác động vào công cuộc xoá bỏ thời bao cấp. Cũng như cả nước, mỗi người đã “tự cứu mình trước khi trời cứu” như lời một vị lãnh đạo khi ấy đã nói. Cấp trên chuyển động, cấp dưới chuyển động, từng người chuyển động, cả guồng máy chuyển động. Lúc đầu còn chưa đồng bộ nhưng rồi dần dần như chiếc xe chở nặng, khi có đà rồi bánh xe cứ thế quay đều quay đều và nhanh dần…
Xã hội qua khỏi thời bao cấp giống như chuyển từ xe đạp sang xe máy. Tốc độ nhanh hơn, hiệu quả cao hơn, đi xa hơn. Đó cũng là những mục tiêu mọi cuộc đổi mới hướng đến. Muốn vậy việc lựa chọn phương tiện phù hợp và những điều kiện đi cùng là rất quan trọng. Thời đại hiện nay sự phát triển nếu so với phương tiện giao thông thì ít nhất, cần phải như tàu cao tốc. Tuy nhiên, muốn có metro trong một thành phố hay tàu cao tốc liên vùng thì không chỉ cần đoàn tàu mới. Quan trọng nhất là hệ thống đường ray hợp lý, hiện đại, an toàn, toàn bộ hệ thống phải đồng bộ khi “đấu nối” với nhau. Sự phát triển quốc gia với những kế hoạch, quy hoạch ngắn hay dài hạn, quy mô khu vực hay toàn quốc… có thể được coi như một mạng lưới đường sắt cao tốc như vậy! Hợp lý và khoa học hệ thống nào cũng vận hành trơn tru và mang lại hiệu quả cao.
Với công cuộc đổi mới hiện nay – người dân có thể không mấy quan tâm đến những khẩu hiệu “đao to búa lớn” mà hay nhìn từ những việc cụ thể, đơn giản, thiết thực cho mỗi người. Bởi vì mỗi người là một bộ phận – dù nhỏ xíu như chiếc đinh ốc - của cỗ máy xã hội. Sự vận hành cỗ máy nào cũng phải bắt đầu từ sự chuyển động của từng bộ phận. Không thể kỳ vọng ngay lập tức sẽ giải quyết hết mọi khó khăn cho người dân, bất bình đẳng với các thành phần xã hội, nhất là trong kinh tế. Nhưng tôi có quyền kỳ vọng những “điều mới, điều khác” chính quyền đang và sẽ làm. Đó là thực sự tôn trọng và phục vụ nhân dân, không tạo thêm bất công xã hội, không tạo điều kiện cho tham nhũng lãng phí hoành hành, không đẻ ra “cơ hội” cho những kẻ cơ hội chuyên “làm nghèo đất nước”.
Tám mươi năm qua, những thế hệ người Việt Nam đã dũng cảm hy sinh tính mạng chiến đấu chống ngoại xâm, biết bao con người đã hết mình lao động xây dựng tổ quốc, vì họ hiểu một cách sâu sắc rằng, giá trị của nền độc lập quốc gia chỉ trọn vẹn khi nhân dân được Tự do và Hạnh phúc – những giá trị phổ quát của nhân loại. Bốn mươi năm từ cuộc đổi mới xoá bỏ bao cấp, nếu cuộc cải cách hiện nay được thực hiện với lòng dũng cảm vàkiên nhẫn, hướng đến nhân dân bằng sự chân thành và khoan hòa, sẽ không chỉ mang lại “diện mạo mới, sinh khí mới” cho bộ máy chính quyền, mà còn khơi dậy niềm tin và sự hy vọng của nhân dân vào một xã hội mới: nơi mà điều tử tế trở thành bình thường, mọi người được tôn trọng và đối xử công bằng, cuộc sống vật chất đủ đầy và đời sống tinh thần nhân văn, tự do.
Nguyễn Thị Hậu
Đặc san báo Tuổi trẻ số 2/9/25



CÔN ĐẢO MIỀN XANH BẤT TẬN GIỮA BIỂN KHƠI

  https://nguoidothi.net.vn/con-dao-mien-xanh-bat-tan-giua-bien-khoi-49617.html?fbclid=IwY2xjawMniTxleHRuA2FlbQIxMQABHs8KTDTEScHTeRSE8a5RD2L...