MỘT KIẾP NÀO ĐÓ Ở PARIS
___
ANH VÀ EM, VÀ PARIS
MỘT KIẾP NÀO ĐÓ Ở PARIS
___
ANH VÀ EM, VÀ PARIS
Nguyễn Thị Hậu
1.
Kinh tế ban đêm hiện nay là một khái niệm quen thuộc với nhiều quốc
gia và thành phố trên thế giới. Chưa chưa có sự thống nhất về nội hàm “kinh tế
ban đêm” nhưng hầu hết các thành phố vận hành nền kinh tế này đều coi “Kinh tế
ban đêm là tổng hòa của các hoạt động kinh tế - văn hoá - xã hội diễn ra trong
khoảng thời gian từ 6g tối đến 6g sáng hôm sau”, trong đó thời gian hoạt đông
tùy thuộc vào từng nơi. Kinh tế ban đêm được nhìn nhận có những tiềm năng to lớn
về mặt kinh tế, tiếp nối những hoạt động kinh tế ban ngày.
Tuy nhiên, kinh tế ban đêm không chỉ có những hoạt động kinh tế
đơn thuần mà lồng vào đó, cùng với đó là những hoạt động văn hóa – xã hội. Bởi
vì ban đêm là thời gian có những hoạt động văn hóa, giải trí, nghỉ ngơi của cộng
đồng dân cư các thành phố, đồng thời hoạt động và nhu cầu của du khách cũng
khác ban ngày. Liên quan đến kinh tế ban đêm có hai chủ thể quan trọng: người
tham gia kinh doanh, lao động và người thụ hưởng những hoạt động kinh tế ban
đêm. Chưa kể đến bộ máy quản lý trực tiếp và gián tiếp. Vì vậy kinh tế ban đêm
phản ánh những đặc điểm văn hoá – xã hội của một thành phố, chính những đặc điểm
ấy hấp dẫn và thu hút du khách một cách đặc biệt.
Ở TP. Hồ Chí Minh, trên thực tế kinh tế ban đêm đã hiện diện tuy
chưa có tính hệ thống và chưa được tổ chức như một tổng thể. Trước hết là những
hoạt động kinh doanh ăn uống mua sắm như các trung tâm thương mại, khu vực Bùi
Viện, đường Nguyễn Huệ, chợ đêm Bến Thành quận 1. Khu vực quanh Hồ con rùa ở quận
3, quận 5 với các phố ẩm thực nổi tiếng… gồm những hoạt động chủ yếu sau: dịch
vụ ăn uống, quán rượu, bia, quầy bar, chiếu phim, hoạt động vui chơi giải trí,
các hoạt động “kinh tế vỉa hè” khác … Bên
cạnh đó là hoạt động biểu diễn nghệ thuật tại các nhà hát, trung tâm văn hóa…
nhưng không thường xuyên và chưa tạo được thương hiệu cho những hoạt động nghệ
thuật này.
Kinh tế ban đêm thực hiện trong những không gian công cộng và dịch
vụ. Bên cạnh đó là “không gian cư trú” của một bộ phận dân cư: nhà phố, mặt tiền,
vỉa hè thậm chí các căn hộ trên chung cư cao tầng cũng có thể tham gia vào kinh
tế ban đêm. Không gian hoạt động của kinh tế ban đêm mở rộng và đan cài nhiều
khu vực, đời sống đô thị sôi động, đa dạng hơn từ các không gian này. Có thể lấy
quận I làm trường hợp điển hình để thấy rõ hơn mối quan hệ giữa kinh tế - văn
hóa – xã hội đô thị thông qua kinh tế ban đêm.
2.
Từ quá trình lịch sử chức năng chủ yếu của quận I là trung tâm
chính trị - hành chính. Nhưng từ góc độ xã hội thì quận I còn là trung tâm dịch
vụ đô thị (thương mại, khách sạn, nhà hàng) và là “vùng di sản” của đô thị Sài
Gòn – TPHCM. Dựa trên các yếu tố này, các nhà nghiên cứu đã nhận biết 6 phân
khu chức năng kinh tế - văn hóa có thể hoạt động cả ngày và đêm, trong đó có những
khu vực ưu tiên hoạt động ban ngày và khu vực khác ưu tiên hoạt động ben đêm.
Phân khu 1 – Văn hóa và di sản: Mô hình tập trung văn hóa – nghệ thuật – giải trí tầm vóc quốc tế,
nhắm tới xây dựng hình ảnh quốc tế cho KTBD Quận 1. Trọng điểm: Nhà thờ Đức Bà,
Nhà hát Thành phố, đường Lê Lợi, Chợ Bến Thành.
Phân khu 2 – Trung tâm thương mại: Mô hình thương mại tập trung vào phân khúc cao cấp và trung cấp,
ưu tiên các hoạt động xúc tiến thương mại và quảng cáo sản phẩm cao cấp. Trọng
điểm: TTTM Takashimaya, đường Lê Lợi, đường
Nguyễn Huệ, TTTM Saigon Square, Chợ Bến Thành.
Phân khu 3 – Đời sống đô thị: Mô hình mảng xanh đô thị, tổ chức sự kiện và ăn uống, giải trí
cho mọi đối tượng khách hàng. Trọng điểm: Công viên 23/9, đường Lê Lai, đường
Nguyễn Trãi.
Phân khu 4 - Cuộc sống đêm: Mô hình phố đi bộ và đêm không ngủ, tập trung vào các hoạt động
giải trí, ăn uống và các sản phẩm có cồn cho tới 4h sáng. Trọng điểm: khu phố
tây Bùi Viện, đường Trần Hưng Đạo.
Phân khu 5 – Không gian thư giãn: Mô hình phố đi bộ cao cấp, trẻ trung, hiện đại và không gian thư
giãn. Trọng điểm: đường Nguyễn Siêu; khu phố Thái Văn Lung, đường Lê Thánh Tôn.
Phân khu 6 – Con đường ánh sáng ven mặt nước: Mô hình bến thủy đa dụng, kết hợp công viên dành cho tổ chức sự
kiện theo chủ đề và dịch vụ phục vụ bến thủy. Trọng điểm: khu vực bến thủy,
hành lang ven sông và khu vực công viên.[1]
Như vậy, bên cạnh những hoạt động kinh tế sôi động, quận I có tiềm
năng lớn cho kinh tế ban đêm từ các yếu tố văn hóa – xã hội. Đó là:
Các không gian công cộng.
Các không gian công cộng được coi là một “chất liệu thiết yếu của
những thành phố thành công” và là nơi kiến tạo ý thức cộng đồng, văn hóa đô thị
và nguồn lực xã hội, theo UN Habitat (2015). Quận 1 có sự tập trung với mật độ
cao các không gian công cộng bao gồm phố đi bộ, các không gian xung quanh các địa
danh, di tích lịch sử, công viên, các khu vực ven mặt nước và khu ẩm thực.
Trong thời gian qua, trên địa bàn Quận 1 đã diễn ra hàng loạt các
sự kiện văn hóa – nghệ thuật – thể thao có quy mô lớn, thu hút sự tham gia của
hàng trăm nghìn lượt người dân trong và ngoài Quận tham dự. Các sự kiện âm nhạc
lớn, có sự tham gia của các nghệ sỹ quốc tế chủ yếu được tổ chức tại khu vực đại
lộ có sức chưa lớn như đường Lê Lợi, Nguyễn Huệ và Lê Duẩn. Trong khi đó, khu vực
Công viên Bến Bạch Đằng thường xuyên là địa điểm được lựa chọn cho các triển
lãm và không gian trưng bày ngoài trời.
Hoạt động, dịch vụ gắn liền với trải nghiệm lịch sừ - văn hóa, dịch
vụ.
Quận 1 là khu vực tập trung các bảo tàng, di tích lịch sử, các
công trình và địa danh mang tính biểu tượng của thành phố. Ngoài ra, trên địa
bàn Quận có khoảng hơn 10 triển lãm, phòng tranh tư nhân. Tuy nhiên, tại thời
điểm đề án được thực hiện, gần như không có bảo tàng, di tích lịch sử và địa
danh nào mở cửa sau 6 giờ tối. Chỉ có duy nhất khu vực chợ Bến Thành đang tổ chức
kéo dài thời gian hoạt động tới 10h tối, nhưng hoạt động không sôi động.
Các không gian, địa điểm
văn hóa mở cửa vào buổi chủ yếu là nhà hát và các trung tâm biểu diễn nghệ thuật,
phòng trà, và rạp chiếu phim (11 cơ sở), nhưng thiếu các chương trình biểu diễn
mang tính điểm nhấn được tổ chức định kỳ. Các không gian và giá trị lịch sử -
văn hóa là những sản phẩm đầy tiềm năng nhưng chưa được khai thác bài bản cho
KTBĐ.
3.
Để từ tiềm năng trở thành nguồn lực thực tế, các yếu tố văn hóa –
xã hội cần được biến thành các hoạt động cụ thể và hiệu quả. Tuy nhiên không thể
bỏ qua những đặc điểm văn hóa – xã hội của cộng đồng. Hay nói cách khác, các hoạt
động kinh tế ban đêm cũng phải “nhập gia tùy tục” thì mới phát triển và bền vững.
Chủ thể tham gia vào kinh tế ban đêm gồm có các doanh nghiệp, chủ
cơ sở kinh doanh, nhà quản lý, du khách trong và ngoài nước… Trước khi tính đến
chuyện “thu được bao nhiêu thuế, quảng bá văn hóa với du khách…” thì việc đầu
tiên phải tính đến là người dân, doanh nghiệp được lợi như thế nào từ việc tham
gia vào các hoạt động kinh tế đêm? Bao nhiêu người/hộ gia đình/cơ sở kinh
doanh… có thể chuyển từ kinh doanh ban ngày sang ban đêm, nếu việc kinh doanh
ban ngày của họ ít hiệu quả hoặc không có điều kiện? Các thiết chế văn hóa cộng
cộng như bảo tàng, trường học… hoạt động vào ban đêm có hiệu quả hay không ?
Tiếp cận từ cơ sở này sẽ tránh được việc đưa ra những phương thức “từ
trên xuống”, tức là từ phía nhà quản lý, với mục tiêu chủ quan như thu thuế hoặc
“sắp xếp lại” hệ thống kinh tế ban đêm cho thuận tiện với bộ máy quản lý… Từ cơ
sở này nhà quản lý sẽ đề ra biện pháp phù hợp thực tiễn và điều chỉnh những hoạt
động không phù hợp, có hại cho kinh tế ban đêm nói riêng và cộng đồng nói chung.
Mặt khác, cần chú ý những “khách thể” tham gia “gián tiếp”, đó là
cộng đồng dân cư sinh sống tại những địa bàn diễn ra các hoạt động kinh tế ban
đêm, đặc biệt những khu vực dịch vụ, ẩm thực, quán bar nhà hàng… Những người
dân sống tại đây (và một số du khách) cần được nghỉ ngơi sau một ngày làm việc
hoặc đã có nhiều hoạt động khác. Văn hóa, lối sống của đa số người Việt Nam, dù
ở thành phố lớn là từ sau 21g – 22g là thời gian “đi ngủ”, nếu sau thời gian ấy
có những tiếng ồn và ánh sáng không phù hợp… chắc chắn sẽ ảnh hưởng lớn đến
khách thể của những hoạt động này. Do đó, kinh tế ban đêm ở TPHCM không nên kéo
dài quá 12g đêm, nếu đó là khu vực xen lẫn với nơi cư trú của của nhiều hộ dân.
Từ đó hướng đến việc “quy hoạch phân khu chức năng” chuyên hoạt động kinh tế
ban đêm.
Bên cạnh đó còn vấn đề an ninh và vệ sinh môi trường. Từ không
gian sinh sống trở thành không gian buôn bán dịch vụ, có những sinh hoạt cộng đồng…
sẽ làm nảy sinh các vấn đề về rác, nước thải, vệ sinh công cộng. Không gian
công cộng đông đúc còn là “cơ hội” cho những kẻ bất lương ăn cắp, móc túi, quấy
rối tình dục… cũng làm ảnh hưởng đến môi trường sống của cư dân tại chỗ.
Sự đồng thuận của cộng đồng dân cư, bao gồm người tham gia kinh tế
ban đêm và người chịu tác động từ nó – là cơ sở quan trọng để nhà quản lý đề ra
phương thức tổ chức và thực hiện một cách phù hợp, hiệu quả. Kinh tế ban đêm -
hãy nhìn nhận nó như là một phương thức hoạt động của đô thị lớn và là một
trong những sinh kế của cộng đồng địa phương. Như vậy chính quyền mới có cách
thức tiếp cận đúng, mang lại hiệu quả cao trong quản lý và điều hành.
Phát triển KTBĐ không chỉ là thúc đẩy các hoạt động kinh tế mà cần
phát triển song hành với việc quảng bá các giá trị văn hóa, cũng như tạo điều
kiện cho các hoạt động mang tính sáng tạo tại địa phương. Mục đích là để tăng
cường sinh kế đúng hướng cho cộng đồng, thu hút người dân và du khách dành nhiều
thời gian trải nghiệm đời sống đô thị và tham gia vào các hoạt động kinh tế ban
đêm. Đặc biệt là hướng đến mục tiêu giúp nâng cao cảm nhận của họ về đặc trưng
văn hóa, sự gắn kết cộng đồng và sự an toàn của đô thị.
TP. Hồ Chí Minh, 20.5.2023
Bài viết có tham khảo một số tài liệu cùng chủ đề của Viện Nghiên
cứu phát triển TPHCM.
Nguyễn Thị Hậu
Chúng tôi đến Alexandria sau một chặng đường dài đi từ ốc đảo
Siwa. Gần một ngày trên xe hơi qua sa mạc dài như vô tận, mãi đến chiều tối mới
nhìn thấy biển thấp thoáng sau những khu đô thị mới xây dựng hai bên đường cao
tốc. Đó là dấu hiệu đã đến gần Alexandria – thành phố cổ đại nổi tiếng đã đi
vào huyền thoại.
Là thành phố lớn nhất bên bờ biển Địa Trung Hải và là thành phố lớn
thứ hai ở Ai Cập sau thủ đô Cairo, Alexandria được thành lập vào năm 331 trước
công nguyên bởi Alexander Đại đế. Đó là một thành phố - hải cảng kéo dài khoảng
40km dọc theo bờ biển Địa Trung Hải phía bắc Ai Cập. Bắt đầu hình thành từ một
khu vực định cư của người Ai Cập (nay đã trở thành một khu phố cổ của thành phố),
Alexandria từng là thủ đô của Ai Cập dưới triều đại của các pharaon Ptolemaic kế
vị Alexander và giữ được vị thế đó trong gần mười thế kỷ. Từ đó thành phố phát
triển nhanh chóng và trở thành một trung tâm văn minh lớn. Đến giữa thế kỷ 7
sau công nguyên, khi Ai Cập bị người Hồi giáo chính phục thì vị thế thủ đô của
Alexandria cũng không còn nữa. Tuy nhiên, vị thế một hải cảng - thương mại lớn
luôn được duy trì, bên cạnh đó là vị thế quan trọng về văn hóa giúp cho
Alexandria luôn là một trung tâm du lịch nổi tiếng.
***
Câu nói “Alexandria là một thành phố mà từ hiện đại về quá khứ chỉ
cách nhau một bước chân” quả không sai! Khắp thành phố là một sự hòa hợp kỳ lạ
giữa những công trình hiện đại đẹp đẽ với những phế tích hoành tráng mang vẻ đẹp
của quá khứ. Dọc theo một trong những con đường chính của thành phố chạy ven bờ
biển, một bên là các tòa nhà cao tầng kiến trúc tân kỳ một bên là biển êm đềm
xanh ngát với vài mỏm núi, hòn đảo trên đó là pháo đài cổ hay các phế tích kiến
trúc. Rất nhiều công trình đã bị chôn vùi trong lòng đất và lòng biển bởi chiến
tranh liên miên, bởi những trận động đất lớn. Vì vậy công tác khai quật khảo cổ
học ở đây có “tiềm năng” vô tận nhưng gặp rất nhiều khó khăn.
Từ tư liệu lịch sử và khảo sát thăm dò có thể nhận biết vị trí,
quy mô của các công trình nổi tiếng thời cổ, nhưng hiện trạng thì đều nằm dưới
các công trình xây dựng vào đời sau, hoặc chìm trong lòng biển. Điều đó hạn chế
không gian để khai quật khảo cổ học đô thị và cần có một nguồn kinh phí cực lớn
trong một thời gian dài. Cung điện hoàng gia của Cleopatra VII bị động đất và
sóng thần tràn ngập, dẫn đến sụt lún dần vào thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên, một
phần thành phố thời Hy Lạp, bao gồm cả ngọn hải đăng nổi tiếng và khu cung điện,
đã được khám phá dưới lòng biển vào năm 1992, hiện đang được các nhà khảo cổ học
dưới nước người Pháp điều tra khảo sát… là những trường hợp đáng tiếc như vậy. Có
thể nói mỗi bước chân đi trên đường phố hiện nay cũng là đang đi trên thành phố
Alexandria cổ đại!
Nổi tiếng nhất trong những công trình đã “biến mất” chính là ngọn
Hải đăng Alexandria, được xây dựng vào thế kỷ 3 trước công nguyên. Hải đăng này
có chiều cao khoảng 100 mét và là một trong Bảy kỳ quan của Thế giới Cổ đại,
trong nhiều thế kỷ được coi là một trong những công trình nhân tạo cao nhất thế
giới. Ngọn hải đăng đã bị hư hại nghiêm trọng bởi ba trận động đất trong khoảng
giữa thế kỷ 10 và thế kỷ 14 sau Công nguyên, trở thành một phế tích khổng lồ
hoang phế. Đến cuối thế kỷ 15 những vật liệu còn sót lại của hải đăng
Alexandria được sử dụng xây dựng Thành Qaitbay ngay trên vị trí của ngọn hải
đăng này.
Tuy vậy những gì còn lại trên mặt đất cũng đủ phục dựng diện mạo của
một thành phố di sản vĩ đại. Có thể kể đến một vài di tích nổi tiếng mà chúng
tôi kịp tham quan trong thời gian vô cùng ngắn ngủi.
Đầu tiên là hầm mộ Kom El Shoqafa. Đây là một khu mộ cổ của thành
phố Alexandria được đào sâu vào lòng đất như một mê cung nhiều tầng, ở giữa hầm
mộ là một cầu thang xoắn ốc lớn bao quanh một “giếng trời” đường kính khoảng
3-4m. Từ đó có những nhánh rẽ vào các tầng hầm, mỗi tầng có hàng trăm căn phòng
được trang trí bằng những hình vẽ, điêu khắc, tượng và các vật trang trí theo
phong cách La Mã. Khắp hầm mộ là những hộc khoét sâu vào lòng đất để đặt quan
tài, nơi làm lễ và các phòng lớn kiểu La Mã để những người thân của người quá cố
tiến hành các bữa ăn tưởng niệm. Kiểu chôn “xác ướp” trong hầm mộ là một táng tục
của người Ai Cập cổ đại, đến thời kỳ La Mã chiếm đóng vẫn được duy trì cho tầng
lớp thượng lưu. Hầm mộ này dần bị vùi lấp do nhiều trận động đất và bị quên
lãng. Nó được phát hiện tình cờ vào năm 1900 và hiện nay hầm mộ được trùng tu một
phần ở các tầng trên, là nơi tham quan của bất kỳ ai đến Alexandria. Tuy nhiên
phần lớn các quan tài có xác ướp bị hư hỏng, một số xác ướp được đưa về bảo
tàng để bảo quản. Trong khuôn viên của khu hầm mộ, bên trên mặt đất trưng bày
những hiện vật điêu khắc đá tìm thấy từ các cuộc khai quật tại đây.
Ngay kế hầm mộ Kom El Shoqafa là di tích “Trụ cột Pompey”, biểu tượng
ghi nhận chiến thắng của người La Mã. Theo sử sách, ban đầu công trình là một
hàng cột trong một ngôi đền thờ, nếu tính cả bệ đỡ thì cao đến 30m, chế tác từ
đá granit, đường kính phần gốc 2,7m và thu nhỏ dần lên phần ngọn là 2,4m. Riêng
cây cột cao 27m được làm chỉ từ một khối đá nguyên vẹn. Công trình sừng sững
bên cạnh một con đường trung tâm ngày đêm đông đúc, trong phạm vi thành cổ
Alexandria, từ xa du khách đã có thể nhìn thấy đỉnh cột cao vút sáng lấp lánh
trong ánh nắng Địa Trung Hải.
Cũng trong khu vực này có một Nhà hát cổ của người La Mã nay cũng chỉ
còn phế tích, bao gồm khán đài hình vòng cung với mười mấy hàng ghế từ cao xuống
thấp xếp đều nhau bằng những tảng đá nhẵn bóng. Bên ngoài là hàng trụ cột cao
vút bằng đá granit màu hồng, những căn phòng phía dưới khán đài dùng làm nơi hội
họp và có cả nhà tắm công cộng. Xung quanh Nhà hát có lẽ còn nhiều công trình
phụ khác nhưng đã bị sụp đổ hoàn toàn. Khắp nơi thảm hoa vàng tươi tắn mọc len
lỏi như đối lập với những tảng đá nghìn năm tuổi, làm cho du khách từ nơi xa đến
đây cảm thấy gần gũi hơn với chứng tích của nền văn minh Địa Trung Hải.
Rời trung tâm thành phố chúng tôi đi đến Thành Qaitbay là một pháo
đài phòng thủ nằm ngay trên bờ biển. Nó được xây dựng vào thế kỷ 15 ngay trên
tàn tích của Hải đăng Alexandria. Thành cổ nằm trên đảo Pharos ở phía Đông, có diện
tích đến 17.550 mét vuông và được bảo tồn nguyên vẹn đến ngày nay. Thành
Qaitbay cũng là một pháo đài đồ sộ cấu trúc hình vuông, là thành trì phòng thủ
quan trọng nhất không chỉ ở Ai Cập mà còn dọc theo bờ biển Địa Trung Hải. Từ
trên ngọn tháp chính cao nhất có thể bao quát toàn bộ bờ biển của thành phố và ngoài
khơi xa, còn tại các tầng của pháo đài đều nhìn ra biển từ những khung cửa lớn
hình vòm hoặc những ô cửa nhỏ hẹp xuyên qua bức tường thành bằng đá rất dày. Tầng
hầm của pháo đài rất rộng bao gồm những bức tường hình vòm nối tiếp nhau chịu lực
cho toàn bộ tòa thành. Một công trình thời trung cổ vĩ đại xứng đáng là được
coi là kế tục ngọn hải đăng Alexandria nổi tiếng.
***
Ngoài những di sản thời cổ đại mà một số di tích trên đây là tiêu
biểu, Alexandria còn có hàng trăm công trình thời cận và hiện đại cũng là những
Di sản văn hóa của Ai Cập và thế giới.
Có thể kể đến Thư viện Alexandria – một kỳ quan văn hóa hiện đại được xây dựng
ngay vị trí Đại Thư viện Alexandria - công trình văn hóa lớn nhất thời cổ đại. Thành phố Alexandria được coi là kinh đô của tri thức và học thuật, một phần
quan trọng là vì có Đại Thư viện và nhiều học giả lớn nhất thời đó đến làm việc
ở đây. Nhưng trong một thời gian dài xã hội bất ổn làm cho hoạt động học thuật của
Đại Thư viện suy giảm, rồi một trận hỏa hoạn khủng khiếp đã thiêu rụi Đại Thư
viện với hàng trăm ngàn bản sách quý giá bằng cuộn giấy và nhiều chất liệu
khác.
Ý tưởng phục hồi Đại Thư viện được hình thành từ thập niên 1970, đến
thập niên 1980 Ai Cập có được sự hỗ trợ của Unesco và quốc tế đã tổ chức thi
thiết kế và xây dựng thành công Thư viện Alexandria mới, được khánh thành vào
năm 2002. Đây là một công trình quy mô khổng lồ có thể sánh ngang Đại Thư viện
thời cổ, kiến trúc hiện đại nổi bật trên bờ biển nhưng hòa hợp với cảnh quan
khu vực. Mặt tiền chính của Thư viện là một “bức tường” bằng đá trắng xám, trên
đó chạm khắc những ký hiệu, hình vẽ, chữ tượng hình Ai Cập cổ đại. Khu vực sân lớn
của Thư viện có một phần di tích Đại Thư viện cổ được khai quật và che kính bảo
tồn tại chỗ. Chính giữa sân là bức tượng bán thân Alexander Đại đế bằng đá cẩm
thạch trắng, lúc nào cũng đông người vây quanh ngắm nhìn và chụp hình.
Tại Thư viện mới này có khoảng tám triệu cuốn sách, trong
đó có nửa triệu sách Pháp Ngữ được nước Pháp tặng. Phòng đọc chính rộng 20.000
mét vuông, tại đó còn có khu vực trưng bày các thiết bị in ấn từ thời xưa. Khu
phức hợp gồm một trung tâm hội nghị; thư viện chuyên ngành cho bản đồ, đa phương
tiện, dành cho người khiếm thị, cho thanh niên và trẻ em. Ngoài ra còn có bốn bảo
tàng, bốn phòng trưng bày nghệ thuật cho các triển lãm tạm thời; 15 phòng triển
lãm thường trực; một cung thiên văn; và một phòng thí nghiệm phục hồi bản thảo…
Thư viện hiện đại trở thành một nơi thu
hút rất nhiều du khách và người đến học tập, làm việc. Hiện nay Thư viện Alexandria
được coi là một Di sản văn hóa mới của thế giới.
***
Thành phố Alexandria sở hữu một hệ thống di sản văn hóa vô cùng đa
dạng qua hàng ngàn di tích và phế tích khảo cổ học, phản ánh quá trình lịch sử
của Ai Cập nói riêng và văn minh Địa Trung Hải nói chung. Đây còn là nơi gặp gỡ
của các tôn giáo lớn, nơi để lại dấu ấn của nhiều nhân vật lịch sử lẫy lừng thời
cổ đại.
Nếu tính cả những công trình thời cận đại thì Alexandria còn hàng chục di tích nổi tiếng khác như: Cầu Stanley, Cung điện Montaza, Corniche, Nhà thờ El-Mursi Abul Abbas, Viện Bảo tàng quốc gia và các Bảo tàng khác, các nhà thờ Hồi giáo, Cơ đốc giáo, nhiều trường đại học, trung học… Mỗi công trình mang nét kiến trúc của thời đại mình, nhưng tập hợp tất cả mang lại cho thành phố vẻ đẹp từ truyền thống đến hiện đại không tách rời mà hòa hợp và cùng nâng cao giá trị của nhau. Có lẽ trên thế giới hiếm có thành phố nào mà sự hiện đại của nó lại bắt đầu từ sự hồi sinh nguồn di sản văn hóa, từ hệ thống di tích lịch sử cho đến những thương hiệu và danh tiếng có từ hàng ngàn năm trước, như thành phố Alexandria.
(Điểm sách THƯƠNG NHỮNG MIỀN QUA)
1. Bộ phim “Battle of little bighorn” chiếu trên kênh
National Geographic kể về việc tìm hiểu một sự kiện lịch sử nước Mỹ, từ những
gì có trong bảo tàng và cả những gì đang lưu giữ ngoài bảo tàng: ký ức, lễ hội
phục dựng sự kiện, về cá nhân những người lãnh đạo sự kiện ấy và hậu duệ của họ,
những nguyên nhân sâu xa, những sự việc tưởng không liên quan trực tiếp đến sự
kiện.
Trận chiến Little Bighorn là một cuộc giao tranh vũ trang
giữa các lực lượng phối hợp của người Lakota Sioux và các bộ lạc Arapaho và
Trung đoàn Kỵ binh số 7 của Quân đội Hoa Kỳ. Trận chiến dẫn đến sự thất bại của
lực lượng Hoa Kỳ, diễn ra vào ngày 25–26 tháng 6 năm 1876, dọc theo Sông Little
Bighorntrong Khu dành riêng cho người da đỏ Crow ở đông nam Lãnh thổ Montana.
Cuộc chiến là một chiến thắng
áp đảo cho Lakota, Bắc Cheyenne và Arapaho, do một số Thủ lĩnh như Crazy Horse
và Chief Gall lãnh đạo. Kỵ binh số 7 của Hoa Kỳ, một lực lượng gồm 700 người,
do George Armstrong Custer chỉ huy đã thất bại nặng nề và Custer bị giết.
Trong những thập kỷ sau đó, Custer và quân đội của ông luôn
được coi là những nhân vật anh hùng trong lịch sử Hoa Kỳ. Đài tưởng niệm Quốc
gia Chiến trường Little Bighorn vinh danh những người đã chiến đấu ở cả hai
phía. Tuy
nhiên cho đến ngày nay trận chiến này và đặc biệt là hành động của Custer, vẫn
được các nhà sử học nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân thất bại của quân đội Hoa
Kỳ dưới sự chỉ huy của vị chỉ huy “chưa từng thua trận” George
Armstrong Custer. Những gì được ghi chép, được trở thành “truyền thuyết”,
kể cả những gì hiện diện trong bảo tàng, ở nơi tưởng niệm… liệu có phải là sự
thật? hay sự thật là bao nhiêu phần trăm từ những gì hiện nay người ta biết về
trận chiến này?
2. Đầu tiên “nhà sử học” - cũng là “người dẫn chuyện” - đi
theo những ghi chép lịch sử như đã nêu vắn tắt ở trên. Không thỏa mãn vì không
tìm ra nguyên nhân giải thích một cách hợp lý thất bại to lớn và “kỳ lạ” của
quân đội Hoa kỳ, nhà sử học tìm hiểu/tiếp cận từ những hướng khác. Đầu tiên ông
đến di tích “chiến trường” xưa. Nơi này được bảo tồn nguyên vẹn cảnh quan, trở
thành một địa điểm kỷ niệm với tượng đài và lễ hội liên quan, thu hút rất đông
khách tham quan hàng năm. Vào ngày kỷ niệm trận chiến diễn ra nhà sử học đã tham
gia vào Lễ hội phục dựng lại trận chiến ngay tại đây. Đây là lễ hội được cộng đồng
cư dân địa phương sáng tạo và duy trì từ rất lâu, xuất phát từ lòng ngưỡng mộ vị
chỉ huy tài danh George Armstrong Custer.
Tại lễ hội, người ta sử dụng quân trang quân dụng được phục
chế đúng như hiện vật trong bảo tàng, phục dựng một phần trình chuẩn bị cho trận
chiến để làm tăng “cảm thức xác thực” của người tham gia và tham dự sự kiện. Từ
phía đội quân người Crow, cũng theo lễ hội được phục dựng, họ tổ chức một truyền
thống nghi lễ lâu đời được gọi là Vũ điệu Mặt trời là sự kiện tôn giáo quan trọng
nhất trong năm nhằm tiếp nhận những gì Thần linh báo trước.
Tiếp đến, nhà sử học tìm hiểu về bản thân George
Armstrong Custer từ những gì lưu trữ trong bảo tàng. Ông nhận thấy đó là một có
tính cách mạnh mẽ, vị chỉ huy quân đội tài giỏi, quyết đoán, nhưng cũng kiêu ngạo
và coi thường ý kiến của người khác. Rồi nhà sử học tìm hiểu về Thủ lĩnh của
người Crow qua hậu duệ của ông, tìm hiểu về những gì diễn ra trong khu làng ấy
khi trận chiến diễn ra và sau đó nữa.
Từ tất cả những hướng tiếp cận đó, nhà sử học tìm ra
nguyên nhân thật sự của cuộc tấn công, lý giải nguyên nhân thất bại thảm hại của
quân đội Custer, lý giải tâm lý tôn sùng ông từ đó đến mãi về sau, tìm hiểu cả
việc cộng đồng người Crow sau đó tan rã nhanh chóng thế nào… Sự thật được “phục
dựng” từ nhiều góc độ, chân dung các nhân vật lịch sử góp phần làm sáng tỏ các
hành động, hành vi của họ đã tác động và dẫn đến kết quả cuộc chiến.
Mỏ vàng lớn và vùng đất giàu tài nguyên của cộng đồng người
bản địa là cái đích mà quân đội Hoa kỳ lúc đó nhắm đến. Sự kháng cự của cộng đồng
bản địa làm tăng quyết tâm tiêu diệt toàn bộ “làng Crow” của Custer làm ông bỏ
qua những tin tức bất lợi từ trinh sát hay khuyến cáo chờ quân tiếp viện của một
số sĩ quan dưới quyền. Về phía cộng đồng bản địa, do luôn cảnh giác và được rèn
luyện thường xuyên nên họ không bị bất ngờ trước cuộc tấn công, đồng thời họ
cũng có quyết tâm giữ lại đất đai ngàn đời của mình. Tuy nhiên họ đã giết hết đối
thủ và cướp đi rất nhiều chiến lợi phẩm, điều đó làm “trái lời thần linh” nên dẫn
đến hậu quả là không lâu sau đó, hầu hết người bản địa đã bị đưa vào những “khu
bảo tồn người da đỏ” và mất hết đất đai.
Tìm ra nguyên nhân hay lý giải một sự kiện lịch sử chưa đủ,
mà còn cần nhận biết “di sản” nó để lại. Như nhà sử học kết thúc bộ phim của
mình: đó là “sự va chạm của hai nền văn hóa” và kết quả là “một bên thua trận
và bên còn lại mất hết”.
3. Tham khảo thêm từ Vikipedia: Địa điểm diễn ra trận chiến
lần đầu tiên được bảo tồn như một nghĩa trang quốc gia của Hoa Kỳ vào năm 1879
để bảo vệ các ngôi mộ của những người lính Kỵ binh số 7. Năm 1946, nó được chỉ
định lại là Đài tưởng niệm Quốc gia Chiến trường Custer, phản ánh sự tôn sùng Custer.
Từ đầu những năm 1970, Công viên Quốc gia này lo ngại về cái tên Đài tưởng niệm
Quốc gia Chiến trường Custer không phản ánh đầy đủ lịch sử lớn hơn của trận chiến
giữa hai nền văn hóa. Các phiên điều trần về việc đổi tên được tổ chức tại
Billings vào ngày 10 tháng 6 năm 1991 và trong những tháng tiếp theo, Quốc hội
đã đổi tên địa điểm này thành Đài tưởng niệm Quốc gia Chiến trường Little
Bighorn .
Gần 100 năm sau, ý tưởng về ý nghĩa của trận chiến đã trở
nên bao quát hơn. Chính phủ Hoa Kỳ thừa nhận rằng sự hy sinh của người Mỹ bản địa
cũng xứng đáng được công nhận tại địa điểm này. Dự luật năm 1991 đổi tên đài tưởng
niệm quốc gia cũng cho phép xây dựng Đài tưởng niệm người da đỏ gần Đồi Last
Stand để vinh danh các chiến binh Lakota và Cheyenne. Vào Ngày Tưởng niệm năm
1999, sau khi tham khảo ý kiến của các đại diện bộ lạc, Hoa Kỳ đã bổ sung hai
điểm đánh dấu bằng đá granit đỏ trên chiến trường để ghi nhận nơi các chiến binh
người Mỹ bản địa ngã xuống.
4. Sự hành xử của chính quyền/nhà nước/cộng đồng người mới đến một vùng, khu vực, lãnh thổ, nơi đã có những cộng đồng bản địa cư trú lâu đời, có truyền thống lịch sử và văn hóa khác biệt… luôn để lại những bài học đắt giá! Lịch sử là những sự kiện đã diễn ra nhưng bài học của nó không bao giờ là “quá khứ”. Không thể “làm lại lịch sử” nhưng có thể nhận thức và ứng xử với quá khứ một cách khách quan, bằng cách tìm hiểu, lý giải, trưng bày, phục dựng, kỷ niệm sự kiện, lưu giữ ký ức… không định kiến dân tộc đa số/thiểu số, không mặc cảm bên thắng cuộc/ bên thua cuộc, công bằng và nhân văn thì sẽ hòa giải, hòa hợp và thật sự đoàn kết!
2.7.2023
Hôm nay 17/2/2025, đăng lại bài này của nhà báo Huy Đức (Trương Huy San), người đang trong vòng lao lý BIÊN GIỚI THÁNG HAI Tác giả: HUY ĐỨ...