Tùy bút. Nguyễn Thị Hậu
1.
Từ đầu nguồn chảy xuống, sông Đồng Nai và sông Sài Gòn hợp lưu ở
Nhà Bè rồi lại tách ra làm hai đổ xuôi ra biển: từ đây, sông Sài Gòn (hay là
sông Lòng Tàu) đổ ra biển bằng cửa chính là cửa Cần Giờ ở vịnh Rành Gái; sông Đồng
Nai (sông Soài Rạp), hợp lưu với sông Vàm Cỏ đổ ra biển bằng cửa Soài Rạp ở vịnh
Đông Tranh. Hai dòng sông này có một hệ thống
chi lưu, phụ lưu gồm các con sông lớn rạch nhỏ chằng chịt bao phủ một vùng đất
rộng lớn do phù sa thành tạo chưa hoàn chỉnh, có những đồi gò cao (nay là khu vực nội
đô), có vùng thấp trũng ngập nước triều là khu vực
Nhà Bè, Cần Giờ.
Từ vị trí
địa lý “trời cho” nhưng được “người chọn” đã tạo nên Sài Gòn - Bến Nghé là một thị tứ sông
nước, hướng biển và kết nối.
Ấn tượng đầu tiên của tôi về Sài Gòn là từ câu ca dao về vùng đất
còn đầy vẻ hoang sơ lạ lẫm: “Nhà Bè nước chảy chia hai/ Ai về Gia Định - Đồng
Nai thì về”. Câu ca dao xưa của những đoàn lưu dân đi
ngược từ cửa biển vào vùng Gia Định, Đồng Nai cùng
với tích truyện Thủ Huồng dựng Nhà Bè ở ngã ba
sông, để sẵn gạo củi giúp cho người lỡ đường sông nước tạm dừng ghe xuồng nghỉ
ngơi, chờ con nước lớn mà ngược vào vùng bán sơn địa Gia Định - Đồng Nai hay
theo nước ròng mà xuôi ra cửa biển Cần Giờ… Trong tôi, Đất Sài Gòn hiện lên nơi
ngã ba sông Sài Gòn và sông Đồng Nai nhập vào nhau để cùng đổ ra biển Đông, cởi
mở và phóng khoáng. Người Sài Gòn hiện ra như những con người rộng rãi, vô tư,
sẵn sàng làm việc nghĩa.
Sau này tích chuyện “Thủ Huồng” bị phủ lên bằng một câu chuyện
mang ý nghĩa “nhân quả”: người giàu phải làm việc thiện để tích đức vì sự giàu có là từ những việc thất
đức! Nhưng tôi vẫn luôn tin rằng, cốt
lõi chuyện/truyện Thủ Huồng đơn giản chỉ là sự phản ánh tính
cách của những người lưu dân đầu tiên vào vùng đất này, họ “thương người như thể
thương thân”, thấy việc cần làm thì phải làm, mình giúp người thì người giúp mình. Vả lại, ở xứ sở mà “con chim kêu cũng sợ con cá vùng
cũng kinh” thì người giàu có phần lớn cũng
là từ người nghèo cần cù làm ăn khéo léo toan tính mà thành công. “Mua chuộc”
cho cuộc sống kiếp sau không phải là tâm thế của một cộng đồng cư dân mà tính thực
tiễn nổi bật trong cả đời sống vật chất và tinh thần. Bởi vì đây là một cộng đồng
mới hình thành từ nhiều nguồn gốc nhiều số phận, gắn bó với nhau bằng lao động sáng tạo và
thích ứng với thiên nhiên hoang sơ lạ lẫm, nương tựa với
nhau bằng tình nghĩa và sự bao dung “tứ hải giai huynh đệ”.
2.
Nếu bắt đầu từ thời tiền sử của vùng đất Sài Gòn thì
cửa biển Cần
Giờ được biết đến như là một “cảng thị sơ khai” từ hơn 2.000 năm trước. Từ Cần Giờ ngược
vào vùng phù sa cổ ven sông Đồng Nai nay thuộc thành phố Thủ Đức, vùng đồi gò
thấp ven sông Sài Gòn nay khoảng quận 12, huyện Hóc Môn, Củ Chi... là những di
tích của các nhóm cư dân cổ sớm hơn, có mặt khoảng từ 3.000 đến 2.500 năm trước.
Trong phạm
vi cả miền Đông Nam bộ thì vùng hạ lưu sông Đồng Nai, sông Sài Gòn (nay thuộc địa
bàn TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương) là trung tâm
một nền
văn hóa cổ “văn hóa Đồng Nai”. Hàng ngàn di tích khảo cổ đã được khai quật, gồm
di tích cư trú, khu mộ táng, công xưởng chế tác công cụ đá, đúc đồng, làm gốm,
chế tác đồ trang sức bằng đá quý, tập trung tiêu biểu nhất là cảng thị sơ khai
Cần Giờ từng có quan hệ giao thương đường biển với quần đảo Đông Nam Á, Trung quốc và Ấn Độ. Hệ thống di tích khảo cổ lưu vực sông Đồng
Nai, sông Sài Gòn đã phản ánh quá trình phát triển liên tục, đa dạng của các cộng
đồng cư dân cổ sinh sống ở miền Đông Nam bộ từ hàng ngàn năm trước, cùng thời với
văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc và văn hóa Sa Huỳnh ven biển miền Trung.
Từ đầu
công nguyên, vương quốc Phù Nam đã hình thành
và phát triển ở trung tâm là Văn hóa Óc Eo ở đồng bằng sông Cửu Long. Sài Gòn nói
riêng và Đông Nam bộ nói chung ở phía Bắc của khu vực trung tâm, cho đến nay
cũng phát hiện được một số di tích di vật
thuộc văn hóa Óc Eo, từ dấu tích đền tháp ở khu vực quận 11, quận 5 đến những tượng thờ của Ấn độ giáo tìm thấy ở nhiều nơi trong thành phố...
Dọc lưu vục sông Đồng Nai cũng phát hiện được những dấu tích tương tự. Đặc biệt
khu di tích Cát Tiên ở thượng lưu sông Đồng Nai là một quần thể đền tháp với
hàng ngàn di vật quý hiếm, có nhà nghiên cứu đã cho rằng đây cũng là một tiểu
quốc thời văn hóa Óc Eo thuộc vương quốc cổ Phù Nam.
Nhìn chung, hệ thống di tích khảo cổ học thuộc lưu vực các dòng sông Đồng Nai – Sài Gòn - Vàm Cỏ cho thấy
mối liên quan chặt chẽ về văn hóa và tộc
người trên nền tảng chung về môi trường sinh
thái, giữa vùng đất Sài Gòn với miền Đông Nam Bộ ngay từ thời tiền sử đến nay.
Mùa xuân Mậu Dần 1698 Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh Chúa
Nguyễn Phúc Chu vào đất Gia Định lập nền hành chánh. Bản thân sự “khai sinh” vùng
Gia Định đã là quá trình tập hợp những cộng đồng từ nhiều nguồn gốc, nhiều vùng
miền trong và ngoài nước, hòa nhập với các tộc người đã tụ cư lâu đời ở vùng đất
này. Nửa sau thế kỷ XVIII những nhóm
người Hoa “bài Thanh phục Minh” được chúa Nguyễn cho phép vào cư trú và lập
nghiệp đầu tiên tại Biên Hòa
và Mỹ Tho. Từ hai khu vực còn khá hoang vu này đã hình thành hai cảng thị phát
triển sầm uất. Cù lao Phố (Biên Hòa) bên sông Đồng Nai tuy nằm sâu trong đất liền
nhưng là nơi sông rộng và sâu, chịu ảnh hưởng của nước triều nên thuận tiện cho
ghe tàu ngược lên miền Đồng Nai thượng
khai thác lâm thổ sản, xuôi phía Nam ra biển Cần Giờ và từ đó có thể đi đến nhiều
nơi khác bằng đường biển. Cù Lao Phố trở thành thương cảng, trung tâm thương mại
và giao dịch quốc tế của cả vùng Gia Định. Ở vùng cửa sông Tiền có Mỹ Tho đại
phố buôn bán nhộn nhịp và sầm uất không thua gì Cù lao Phố.
Tại hai đô thị này sự phát triển của giao thương đã tạo điều kiện phát triển nhiều
ngành nghề thủ công khác. Dân cư đông đúc, để lại nhiều di tích như các đền miếu, chùa, quần
thể mộ cổ, dấu tích bến bãi ven bờ sông... Dưới lòng sông Đồng Nai đã vớt được
hàng ngàn đồ gốm xuất xứ từ nhiều nơi: gốm Thái Lan, Khmer,
Trung quốc, gốm Champa, gốm của người Việt...
Qua khỏi Cù Lao phố, ngược dòng Đồng Nai lên đến Cù Lao Rùa thuộc
thị xã Tân Uyên tỉnh Bình Dương. Đây là một cù lao
được bao bọc bốn bề là sông nước, nằm giữa hai dòng chảy là sông Đồng Nai và
dòng chảy sông Sài Gòn. Cù lao Rùa là một di tích khảo cổ nổi tiếng của văn hóa
Đồng Nai hơn 3.000 năm trước. Từ thế kỷ XVIII Cù Lao Rùa còn nổi tiếng với phong cảnh thanh bình, làng xóm phong
quang với nhiều ngôi nhà cổ xây bằng gỗ quý, trang trí đẹp đẽ, những đình làng, đền miếu cổ xưa, vườn
trái cây, ruộng lúa trù phú...
3.
Xuôi dòng sông Đồng Nai, sông Sài Gòn về lại Sài Gòn - Bến Nghé. Từ
đầu thế kỷ XVII, Sài Gòn lần lượt trở thành bến sông – phố chợ – nơi thu thuế –
trung tâm kinh tế – khu vực chiến
lược rồi trung tâm hành chánh của Đàng Trong thời các chúa
Nguyễn. Từ khi Thành Gia Định được xây dựng (1790) và nhất là từ khi thành lập
triều Nguyễn, vị trí quân sự
– kinh tế – xã hội của Sài Gòn được khẳng định và ngày càng quan trọng. Hệ thống
các công
trình công nghiệp, thương cảng, thương mại của
đô thị Sài Gòn còn lại đến nay đều phản ánh tình trạng kinh tế – xã hội phát
triển mạnh mẽ.
Cùng với quá
trình khẩn hoang lập ấp, phát triển sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp…
lưu dân vào vùng đất Gia Định đã mang theo
những phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, lối sống nếp sống... của quê
hương bản quán làm chỗ dựa
tinh thần ở vùng đất mới. Hàng trăm di tích kiến trúc truyền thống là chứng tích của những sinh
hoạt tinh thần của các cộng đồng dân cư.
Trong nửa sau thế kỷ XIX, các dự án quy hoạch đô thị Sài Gòn của
chính quyền thuộc địa Pháp chủ yếu là khu vực Bến Nghé xưa. Chợ Lớn vẫn là trung tâm thủ công nghiệp và thương nghiệp. Nửa đầu thế kỷ XX Chợ Lớn đô
thị hóa nhanh chóng, các làng
nghề thủ công biến mất, hoặc phải lùi ra vùng
ven và các tỉnh lân cận,
như xóm Lò gốm Sài Gòn nhường vai trò cho các làng gốm ở Biên Hòa, Lái Thiêu.
Vào năm
1931 Sài Gòn – Chợ Lớn sáp nhập thành một đô thị lớn song vẫn là hai
khu vực với hai chức năng chính: Sài Gòn chủ
yếu là khu hành chánh, dịch vụ và công nghiệp,
cảng thị, còn Chợ Lớn là khu thương mại, tập
trung các chợ đầu mối hàng hóa nông sản.
Hệ thống
di sản đô thị Sài Gòn có niên đại từ thế kỷ XIX đến nay rất phong phú về loại
hình: từ cảnh quan đô thị sông nước, công trình kiến trúc nghệ thuật đến công
xưởng nhà máy, từ nhà cổ biệt thự, đình chùa đền miếu nhà thờ thánh thất giáo đường
đến thành lũy, lăng mộ, quần thể kiến trúc – kinh tế - văn hóa khu vực Chợ Lớn...
Tất cả hợp thành sự phong phú của văn hóa cộng đồng, phản ánh quá trình “di
dân, nhập cư”, sự đa dạng về kinh tế. Qua các giai
đọan lịch sử, đô thị Sài Gòn luôn là một thương cảng - trung tâm
kinh tế có ảnh hưởng quan trọng đến một khu vực
rộng lớn.
Có thể
nói, vị thế Địa – Kinh tế đã tạo nên một đô thị Sài Gòn độc
đáo khác với những thành phố khác của Việt Nam, đồng thời vị thế Địa – Văn hóa của Sài Gòn cũng tiêu biểu và đại diện cho vùng Nam bộ.
4.
Gần đây Tp. Hồ Chí Minh đã quan tâm đến mạng lưới giao
thông đường thủy và từ đó nhìn thấy tiềm năng phát triển du lịch đường sông. Sông
Sài Gòn chảy xuyên qua thành phố và sông Đồng Nai nối liền thành phố với nhiều
tỉnh miền Đông Nam bộ – trở thành hai tuyến giao thông kết nối, hai tuyến du lịch
xuyên không gian – thời gian lịch sử.
Trong
thành phố, các kinh rạch lớn như Nhiêu Lộc, Thị Nghè, sông/rạch Bến Nghé, Kinh
Tẻ Kinh Đôi, rạch Lò Gốm... có thể trở
thành những “đại lộ” chính nối liền các quận huyện, các khu vực dân cư cũ đến
các đô thị mới. Không chỉ vậy, sông Sài Gòn trở thành yếu tố nối liền từ trung
tâm qua “phố Đông” Thủ Thiêm – nơi từng có những làng xóm cổ xưa. Nối liền theo
sông nước để thấy thành phố có lịch sử lâu dài, có vốn văn hóa quý giá có thể
trở thành “kinh tế di sản” trong phát triển bền vững.
Từ thành phố xuôi ra biển hay ngược lên vùng phù sa cổ bán sơn địa
đều có thể chiêm nghiệm quá trình lịch sử, qua hệ thống
di tích phong phú và dày đặc dọc theo đôi bờ hai dòng sông. Sự kết hợp đa dạng
của văn hóa các cộng đồng từ cư dân bản địa đến lưu dân người Việt, người Hoa,
từ di tích người tiền sử xa xưa đến những lớp di dân đến sau thậm chí sự biến đổi dân cư trong thế kỷ XX... làm cho tiềm năng “du lịch văn hóa các dòng
sông” trở nên độc đáo bởi sản phẩm có thể thỏa mãn nhiều mục đích tham quan,
nhiều đối tượng du khách: di tích kiến trúc (đình, chùa, miếu, nhà cổ...), ẩm
thực, cảnh quan vườn trái
cây, các làng nghề... đặc biệt là giới thiệu, lưu giữ và phát triển “văn hóa
sông nước” đặc trưng của Nam bộ.
Tuyến du lịch đường thủy trên sông Sài Gòn, sông Đồng Nai có rất
nhiều tiềm năng. Khả năng kết nối với tuyến Vàm Cỏ, Cửu Long của miền Tây Nam bộ vẫn
còn “bỏ ngỏ”. Việc thành phố Hồ Chí Minh chỉnh trang bến Bạch Đằng – điểm đầu của
tuyến giao thông/du lịch là phát huy một giá trị di sản của “đô thị sông nước” Sài Gòn, đồng thời nhắc nhớ về tâm thức của cư dân sông
nước Nam bộ, đó là luôn thích ứng và linh hoạt. Kết
nối chứ không đóng kín, hướng ra sông và biển chứ không chỉ “cắm rễ” ở đồng bằng
và chạy lên miền rừng núi. Tư duy sông nước “truyền thống và hiện đại” càng cần
được khôi phục trong Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của các địa
phương, bởi vì sông nước là yếu tố kết nối tự nhiên, vốn có.
TP. Hồ Chí Minh ngày 26.3.2022.
Bài rút ngắn đăng trên báo Tuổi trẻ, đặc san 30.4/2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét