Nguyễn Thị Hậu
Hiện nay, từ đô thị đến nông
thôn đã xảy ra tình trạng nhiều công trình kiến trúc có giá trị di sản văn hóa -
thuộc sở hữu tư nhận hoặc sở hữu của một tổ chức - bị xuống cấp hư hỏng nặng nề,
do nhu cầu cuộc sống mà chủ sở hữu đã sửa chữa, cơi nới làm mất đi nhiều giá trị
lịch sử - kiến trúc, hoặc phổ biến hơn là phá đi để xây công trình mới... Bên cạnh
đó việc chính quyền chưa quan tâm đúng mức đến các công trình có giá trị di sản của tư
nhân (nhà cổ, biệt thự) và cộng đồng như “làng cổ Đường Lâm”, các công trình
công giáo như nhà thờ, tu viện... cũng
làm cho vốn di sản của quốc gia đã bị mai một rất nhiều!
Còn nhớ vài năm trước đây ngôi
biệt thự cổ ở đường Nơ Trang Long quận Bình Thạnh (TPHCM) bị phá dỡ, khi báo
chí và các nhà nghiên cứu lên tiếng thì chính quyền “vào cuộc” nên chủ nhà phải
tạm dừng việc tháo dỡ. Nhưng rồi sau đó không có giải pháp cụ thể để đưa công
trình vào diện bảo tồn, trùng tu... Vì vậy chỉ vài tháng sau công trình đã bị
tháo dỡ hoàn toàn, nhằm đảm bảo an toàn và đáp ứng nhu cầu xây công trình mới của
chủ sở hữu mới.
Hay nhà thờ Trà Cổ (Quảng
Ninh) - đã tồn tại một thời gian dài như một phế tích tuyệt đẹp bởi kiến trúc
và dấu ấn thời gian – đã bị phá đi để xây dựng nhà thờ mới. Gần đây sự việc nhà thờ Bùi Chu (Nam Định) có tuổi đời hơn 130 năm được quyết định “hạ giải, đại
trùng tu” một lần nữa lại đặt ra vấn
đề: ứng xứ thế nào với các công trình có giá trị di sản văn hóa nhưng chưa được xếp hạng và thuộc sở hữu của một tổ chức hoặc sở hữu tư nhân.
Luật Di sản văn
hóa VN (2001) quy định tại điều 1: di sản
văn hóa là “sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”. Có nghĩa là Di sản văn hóa không chỉ là những gì đã được công nhận
hay xếp hạng di tích.
Như vậy, những công trình qua
thời gian đã tích tụ trong nó giá trị nhiều mặt
(lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật...) trở thành di sản là một sự thật khách quan. Nếu cộng đồng nhận thức, bảo vệ
và duy trì những giá trị ấy thì công trình trở thành “tài sản văn hóa” của cộng đồng và đóng góp vào kho tàng di sản quốc gia và nhân loại. Nhưng nếu do
không nhận thức được, hoặc
mặc dù hiểu biết mà cố tình phá hủy một công trình có giá trị nhưng “chưa được xếp hạng” thì thực chất việc đó là hủy hoại
di sản văn hóa.
Để hạn chế tình
trạng này cũng là nhằm mục đích bảo vệ kịp thời những di sản văn hóa chưa được
xếp hạng, Luật Di sản văn hóa sửa đổi và bổ sung năm 2009 đã quy định ở khoản
14 điều 4: “Kiểm kê di sản văn hóa là hoạt
động nhận diện, xác định giá trị và lập danh mục di sản văn hóa”. Do đó những
công trình đã được kiểm kê tức là bước đầu được công nhận giá trị và cần được ứng
xử đúng với tính chất là di sản văn hóa, từ đó sẽ xếp hạng theo quy định của Luật
DSVH.
Tuy
nhiên trong thực tế khi giải quyết các vấn đề phát sinh (như chuyển đổi
sở hữu, xin phép sửa chữa hay xây mới...) thì công trình có giá trị di sản mà chưa được “xếp hạng” lại liên quan và chịu sự điều chỉnh của luật lệ, quy định
khác (Luật đất đai,
Luật xây dựng...) và không nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật Di sản văn
hóa. Chủ sở hữu những công trình này hầu như không muốn được “xếp hạng” vì tâm
lý lo ngại: 1/nhà nước sẽ “quản lý” thậm chí “sở hữu” công
trình, đất đai của mình, không thể chuyển đổi sở hữu; 2/thủ tục sửa chữa xây dựng
khó khăn, phải
chịu sự “can
thiệp” của chính quyền; 3/sử dụng công trình di sản phải theo Luật, không thể
tùy tiện...
Đây chính chỗ
phản ánh mâu thuẫn giữa bảo tồn di sản văn hóa và cuộc sống của người dân, là
chỗ ách tắc mà cơ quan quản lý nhà nước phải đối mặt khi giải quyết thực tiễn. Luật
Di sản văn hóa (2001) quy định ở điều 9 khoản 2: Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu di sản văn
hóa. Chủ sở hữu di sản văn hóa có trách nhiệm bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa. Như vậy, quyền sở hữu hợp pháp về công trình di sản của chủ sở hữu
được luật pháp thừa nhận và bảo vệ.
Nghị định số
98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Di sản văn hóa và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn
hóa, quy định tại Điều 13 về Lập hồ sơ
khoa học để xếp hạng di tích: Hồ sơ khoa học để xếp hạng di tích bao gồm: a)
Đơn đề nghị xếp hạng của tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu
hoặc được giao quản lý di tích; và một số tài liệu khác. Việc này có ý
nghĩa: 1/Chính quyền thừa nhận và tôn trọng quyền sở hữu
của cá nhân, tổ chức đối với công trình; 2/ Bản
thân tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc được giao quản lý di tích nhận thức được
ý nghĩa và giá trị di sản của công trình; 3/Đồng thuận và hợp tác với cơ quan chức năng làm hồ
sơ khoa học để xếp hạng di tích; 4/Thể hiện trách nhiệm bảo tồn và trao truyền cho thế
hệ sau di sản mà mình đang sở hữu, quản lý.
Tất cả những điều
khoản trên của Luật Di sản văn hóa dựa trên nền tảng xã hội đã có nhận thức và
ý thức trách nhiệm về di sản văn hóa. Đồng thời có sự liên kết và đồng bộ giữa
các cơ quan thực thi các bộ luật liên quan đến di sản văn hóa. Tuy nhiên thực tế
thì ngay các công trình thuộc sở hữu nhà nước hay do cơ quan nhà nước quản lý
và sử dụng, khi làm hồ sơ xếp hạng di tích cũng còn khó khăn, vì vậy việc thuyết
phục cá nhân hay tổ chức sở hữu, quản lý công trình có giá trị di sản đồng thuận
để xếp hạng di tích không hề dễ dàng nếu chỉ căn cứ theo luật định.
Ngoài những trở
ngại về tâm lý (do hoàn cảnh lịch sử để lại và thực tế đã xảy ra) và nhận thức (do chưa được tuyên truyền giáo dục
sâu rộng trong cộng đồng), một vấn đề luôn được đặt ra là nếu đồng ý xếp hạng
di tích, tức là đóng góp thêm cho nhà nước “di sản văn hóa” thì ngược lại, cá
nhân hay tổ chức sở hữu di sản sẽ thụ hưởng gì về vật chất và tinh thần từ “tài
sản của mình”, nhất là những bất động sản có trị giá kinh tế cao? Việc sử dụng
di tích sau khi xếp hạng có đáp ứng nhu cầu đời sống của người dân hay của cộng
đồng không? Và nếu công trình hư hỏng, xuống cấp thì kinh phí đâu để sửa chữa,
trùng tu và bảo tồn lâu dài?
Khi chưa được giải
đáp rõ ràng những vấn đề này thì việc xếp hạng di tích, bảo tồn di sản sẽ còn xảy
ra nhiều trường hợp như những ví dụ trên. Không chỉ kêu gọi tinh thần, ý thức
“bảo tồn di sản” chung chung mà cần có chính sách, luật định cho việc bảo tồn
di sản thực sự trở thành “ích nước lợi nhà”, như kinh nghiệm và bài học ở nhiều
quốc gia đã có.
Báo NGƯỜI ĐÔ THỊ ngày 23/5/2019
Hình: tui chụp 2013 - Nhà thờ Lớn HN được chưa xếp hạng di sản văn hóa!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét