TÀI SẢN CỦA GIÁO PHẬN NHƯNG GIÁ TRỊ DI SẢN
THUỘC CỘNG ĐỒNG CHUNG
Hiện nay có thể nhận thấy Luật Di sản
văn hóa và các quy định về bảo vệ, bảo tồn di sản văn hóa chưa bao quát hết các
loại hình di sản, nhất là với những di sản thuộc sở hữu tư nhân hay sở hữu của
một tổ chức. Vì vậy việc xếp hạng di tích còn hạn chế những trường hợp này. Đặc
biệt khi công trình hư hỏng xuống cấp phải đứng trước sự lựa chọn khó khăn: hoặc
phá hủy để xây công trình mới (nhanh chóng, dễ dàng), hoặc cố gắng bảo tồn và
trùng tu (mất thời gian, khó khăn và tốn kém hơn).
Tuy nhiên, một công trình chưa xếp hạng
không có nghĩa là công trình, di tích đó không có giá trị di sản. Một đối tượng được coi là
di sản khi có các thuộc tính:
-
Tính truyền thông, vì di sản luôn mang nhiều ý nghĩa với
cộng đồng; nó trở thành biểu tượng của một nơi chốn, là ký ức của cộng đồng chủ
thể của di sản, được trao truyền qua các thế hệ, đồng thời là dấu hiệu để cộng
đồng khác “nhận biết” một vùng văn hóa khác.
-
Tính khoa học vì đối tượng di sản được thừa nhận thường
có giá trị lớn về mặt lịch sử hoặc nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc, hội họa, kỹ
thuật xây dựng… Những giá trị này có tính không thể thay thế được vì đại diện
cho một thời đại, một giai đoạn lịch sử; Tính khoa học là khách quan, không phụ
thuộc vào sự nhìn nhậ, đánh giá của chủ thể “sở hữu” hay quản lý di sản.
-
Tính kinh tế: di sản mất đi có thể gây nên mất mát cho cộng
đồng bởi chính trị giá kinh tế của công trình và nguồn lợi do di sản mang lại
-
Đồng thời di sản mang tính lịch sử sâu sắc do ba khía cạnh:
đến từ quá khứ, sống cùng hiện tại, là cơ sở cho tương lai nhận thức về lịch sử.
-
Di sản còn mang tính nhân văn của sự phát triển bền vững,
vì nó xác lập, bảo vệ và tôn trọng sự đa dạng văn hóa.
Vì vậy, khi một công trình có giá trị
nhiều mặt đứng trước nguy cơ bị hủy hoại thì việc các nhà chuyên môn, công
chúng lên tiếng chính là để chính quyền phải xem xét và có phương thức ứng xử kịp
thời. Đồng thời cũng là cơ hội để cộng đồng nâng cao ý thức và sự hiểu biết về
giá trị di sản. Trường hợp Dinh Thượng thơ ở TPHCM là một ví dụ.
Nhà thờ là tài sản của giáo phận, phá
đi hay xây mới cũng từ tiền của giáo dân, không phải tiền của nhà nước. Tuy
nhiên, sở hữu công trình thuộc về tư nhân hay tổ chức nhưng giá trị di sản của
công trình thì thuộc về cộng đồng chung. Bởi vì mỗi giáo phận không
tồn tại ở nơi hoang vắng không thuộc về quốc gia nào
mà luôn thuộc về một quốc gia, một nền văn hóa, và như vậy công trình nhà thờ về
giá trị vật chất và tinh thần theo thời gian còn là sự phản
ánh lịch sử của cộng đồng, của vùng đất và
quốc gia đó.
Trong thời hiện đại, giá trị kiến trúc và nghệ thuật trang trí của công trình nhà thờ còn thể hiện sự độc đáo riêng biệt của từng nền văn hóa, các cộng đồng riêng đóng góp vào dòng chảy chung của lịch sử công giáo thế giới. Đây chính là ý nghĩa quan trọng nhất của việc bảo tồn di sản kiến trúc công giáo ở mỗi vùng miền, mỗi quốc gia.
Trong thời hiện đại, giá trị kiến trúc và nghệ thuật trang trí của công trình nhà thờ còn thể hiện sự độc đáo riêng biệt của từng nền văn hóa, các cộng đồng riêng đóng góp vào dòng chảy chung của lịch sử công giáo thế giới. Đây chính là ý nghĩa quan trọng nhất của việc bảo tồn di sản kiến trúc công giáo ở mỗi vùng miền, mỗi quốc gia.
Việc bảo vệ sự tồn tại của Dòng Mến Thánh giá và nhà thờ Thủ
Thiêm, hay cảnh quan cây xanh đường Tôn Đức Thắng nơi có
những công trình công giáo lâu đời tại TPHCM cũng với ý
nghĩa này.
Nếu cộng đồng hiểu giá trị và công nhận
một công trình xứng đáng là di sản còn quan trọng hơn việc nó có được xếp hạng
hay không. Bởi vì khi đó cộng đồng sẽ luôn quan tâm, chăm sóc, bảo vệ và bảo tồn
để công trình không hư hỏng xuống cấp, để công trình không có nguy cơ một ngày
nào đó bị chính cộng đồng sinh ra mình tuyên án.
Sự nỗ lực của những người yêu di sản
chỉ đơn giản là như vậy.
Khi cộng đồng đã có
ý thức cùng chia sẻ và tìm cách bảo vệ di sản, tiếng
nói chung của những người yêu quý di sản dù là người
công giáo hay không sẽ giúp tìm ra phương thức đúng đắn để
ứng xử phù hợp với di sản, đồng thời thúc đẩy công tác quản lý di sản phải
thích ứng và kịp thời giải quyết các vấn đề mới nảy sinh.
Thực trạng rất đáng lo ngại của di sản
văn hóa hiện nay cho thấy, việc bổ sung,
thay đổi hoặc xây dựng những điều luật mới phù hợp với thực tiễn cuộc sống đang
trở thành một nhu cầu cấp bách.
Sài Gòn 2.5.2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét