Nguyễn
Thị Hậu
1. Thách
thức lớn nhất đối với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam là trong
quá trình hiện đại hóa phải bảo toàn và khẳng định được bản sắc văn hóa của
mình. Do áp lực toàn cầu hoá về kinh tế và hội nhập văn hóa, áp lực phải đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng của đời sống... các quốc gia này đua nhau phát triển bằng
quy hoạch hạ tầng cơ sở đồ sộ nặng nề, xây dựng những công trình “nghệ thuật kiến
trúc hiện đại” không tạo nên sự khác biệt. “Bộ mặt mới” như thế đã làm biến
mất đặc trưng văn hoá các đô thị và bản sắc văn hoá truyền thống ở vùng nông
thôn.
Tình trạng đó bắt nguồn từ
nhận thức: một đất nước văn minh hiện đại phải có những công trình thể hiện sự
phong phú đa dạng của di sản văn hóa chứ không chỉ là những công trình thể
hiện sự giàu có về kinh tế. Từ nhận thức các giá trị di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể, thông qua chính sách của nhà nước và công trình nghiên cứu khoa
học, cần được phổ biến và giáo dục để trở thành ý thức của chính quyền và người
dân, thể hiện bằng những hành xử đúng của cộng đồng và các nhà quản lý trong việc
gìn giữ di sản văn hóa.
Tuy nhiên, ở nước ta do nhiều
nguyên nhân như hoàn cảnh lịch sử chiến tranh và “đấu tranh giai cấp” lâu dài,
định kiến phân biệt sắc tộc và văn hóa vùng miền từ nhận thức và trình độ quản
lý xã hội, sự hiểu biết không đầy đủ về các loại hình và giá trị di sản các thời
kỳ lịch sử khác nhau, việc xây dựng quy hoạch phát triển địa phương chưa mang tầm
chiến lược… đã gây ra hậu quả là di sản văn hóa vật thể và phi vật thể bị biến
dạng và phá hủy ngày càng nhiều hơn.
2. Trong
lý thuyết nghiên cứu về văn hóa, di sản được gọi là “ký ức tập thể” vì nó xác định
khung cảnh sống của một cộng đồng, tính hợp thức về bản sắc văn hóa và là cơ sở
để phát triển xã hội. Di sản văn hóa không chỉ là công trình kiến trúc nghệ thuật
đồ sộ hay cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, nó còn là “nơi chốn” thân thuộc gắn bó
với cộng đồng nói chung và con người cụ thể. Di sản có sự biến đổi qua thời
gian vì cộng đồng dân cư duy trì và (làm/góp
phần) biến đổi nó. Vì vậy bên cạnh giá trị vật chất di sản
còn là ký ức của mỗi cộng đồng trong từng giai đoạn lịch sử. Giá trị cao nhất
và linh hồn của di sản chính là ở đó.
Mặt khác, di sản không chỉ
có một “ký ức tập thể” mà đó còn là sự hòa nhập của những khác biệt, thậm chí
là mâu thuẫn, của ký ức những cá nhân thuộc về những hoàn cảnh, giai tầng, tập
quán xã hội... khác nhau, nhất là ở đô thị. Đụng chạm đến di sản là đụng chạm
vào nơi mong manh nhất của tâm hồn và tình cảm con người, đó là ký ức. “Mỗi thời
đại đều có cách thích ứng của mình với quá khứ” nên việc tôn trọng ký ức của cá
nhân, cộng đồng khác nhau thể hiện ứng xử tử tế với di sản và lịch sử.
Tích lũy qua thời gian, giá
trị nhiều mặt của các công trình di sản là khách quan nhưng đánh giá giá trị và
từ đó ứng xử với di sản thế nào thì hoàn toàn chủ quan. Tính nhân văn của xã hội
loài người thể hiện ở việc luôn có xu hướng tìm hiểu quá khứ và từ đó quý trọng
quá khứ. Các di tích khảo cổ học nằm sâu dưới lòng đất được khai quật và nghiên
cứu, nâng niu trưng bày trong bảo tàng dù chỉ còn “những mảnh vỡ”; các công
trình vĩ đại của những nền văn minh cổ xưa nay chỉ là phế tích đổ nát vẫn được
bảo tồn và trùng tu... bởi vì tất cả chứng tích ấy mang lại sự “hồi tưởng lịch
sử” mạnh mẽ, bù đắp cho sự “thiếu hụt” của tính toàn vẹn hay tính mỹ thuật do
thời gian và do con người. Giá trị lịch sử là yếu tố quan trọng nhất đòi hỏi
các thế hệ sau phải tôn trọng và bảo vệ di sản văn hóa.
Trong một “quá khứ gần” thì ký ức về di sản
chưa thể toàn vẹn trong việc nhìn nhận các giá trị di sản. Nó như những hạt
tinh thể lấp lánh, mang tính cá thể vì mỗi cá nhân có sự nhận biết, kỷ niệm,
tình cảm, sự gắn bó... với nơi chốn sinh sống, nơi chốn đã qua khác nhau. Nhưng
nếu di sản được bảo tồn và lưu truyền thì những ký ức cá nhân dần dần kết thành
“ký ức tập thể” đồng nhất, bền vững và trong suốt như khối kim cương, quá khứ của
“loài người” trở thành một phần trong mỗi con người.
Sự phát triển của xã hội
loài người không thể thiếu tài sản vô giá này từ quá khứ!
3. Ở
nước ta đặc biệt trong những năm gần đây đã có nhiều công trình kiến trúc thuộc
sở hữu tư nhân và sở hữu của tổ chức như các tôn giáo, sinh hoạt văn hóa của cộng
đồng như tín ngưỡng, lễ hội... đã biến mất, nều còn tồn tại thì thay đổi và biến
dạng rất nhanh! Điều này ngoài sự bất cập của việc đề ra chính sách và thực thi
chính sách văn hóa của nhà nước còn do “sự đứt gãy” về văn hóa trong cộng đồng:
một thời gian dài trong và sau chiến tranh, các công trình kiến trúc tôn giáo,
tín ngưỡng, các công trình nghệ thuật “thời phong kiến thực dân” đã không được
quan tâm, thậm chí bị phá hủy; nhiều sinh hoạt văn hóa cộng đồng như lễ hội,
tín ngưỡng truyền thống ở các địa phương... bị xóa bỏ hoặc phải sinh hoạt “bí mật”.
Chính vì vậy, khi được
“phục hồi” thì các di sản vật thể có hình thức hiện đại hóa theo kiểu “hoành
tráng, rực rỡ”, hoặc có vẻ “truyền thống” nhưng là đặc trưng văn hóa của quốc
gia khác. Còn văn hóa phi vật thể thì lại phục hồi nguyên dạng sinh hoạt của
hàng chục hàng trăm năm trước và tất nhiên không còn phù hợp với cuộc sống ngày
nay, gây ra sự phản cảm và nhận thức sai lệch về giá trị; hoặc biến đổi tiêu cực
vì bị lồng vào đó sinh hoạt mang tính chất “buôn thánh bán thần”. Những “di sản”
như vậy làm sao có thể trở thành “ký ức tập thể” quý giá như khối kim cương để
làm giàu cho hiện tại và tương lai?
Chính sách bảo tồn văn
hóa của thế giới và các quốc gia đang thể hiện nhận thức tình trạng nguy ngập của
di sản văn hóa. Đó là việc thúc đầy và hỗ trợ cho các dự án bảo tồn di sản văn
hóa vật thể và phi vật thể; việc khẩn trương nghiên cứu lập hồ sơ công nhận di
sản văn hóa các cấp, thực hiện tổng điều tra di sản văn hóa ở địa phương và
quốc gia, khảo sát lại những di sản đã được xếp hạng để cập nhật thực trạng và
giải pháp bảo tồn, ban hành nhiều quy định, quy chế cho các ngành liên quan đến
di sản văn hóa… Đặc biệt quá trình quy hoạch chỉnh trang đô thị cũ hay xây dựng
đô thị mới đều đặt vấn đề bảo tồn di sản văn hóa lên hàng đầu.
Tất cả những cố gắng đó đều
nhằm một mục tiêu: Bảo tồn di sản gắn liền với việc bảo vệ đời sống tinh thần
của cộng đồng thông qua việc nâng cao kiến thức và sự hiểu biết cho người
dân, phát huy giá trị di sản gắn liền với kinh tế di sản, đưa cộng đồng tham
gia và trực tiếp được hưởng lợi từ việc bảo tồn di sản. Bởi vì di sản văn
hóa cần được coi là một loại “vốn xã hội”, có giá trị văn hóa - tinh thần đồng
thời cũng có giá trị kinh tế - vật chất. Giá trị kinh tế của di sản văn hóa cần
nhìn nhận trong một phạm vi rộng, tầm vĩ
mô chứ không chỉ là nguồn lợi của một nhóm lợi ích hay một địa phương. Cần lưu
ý là “lợi nhuận” từ việc khai thác giá trị di sản văn hóa cũng như khai thác mọi
nguồn tài nguyên khác, đảm bảo cho sự phát triển bề vững.
4. Vậy, để có thể “sửa
sai” và đừng tiếp tục những ứng xử và hành vi sai lầm, thậm chí là tội ác đối với
di sản văn hóa, những kinh nghiệm nào của các quốc gia thành công trong việc phát triển “kinh tế di sản” mà chúng ta có thể
ứng dụng? Có thể kể đến vài kinh nghiệm
quan trọng sau.
- Tạo dựng hình ảnh cảnh quan cho khu vực di sản văn
hóa, nơi lưu giữ những giá trị kiến trúc, nghệ thuật, lịch sử, văn hóa đặc thù
của một thời. Nơi đây giữ vai trò truyền tải thông điệp của quá khứ đến hiện tại,
thông điệp của cộng đồng cư dân đến những cộng đồng khác. Sự tồn tại của di sản
trong cảnh quan phù hợp góp phần làm tăng giá trị của cả khu vực và là điểm nhấn
cho cả vùng.
-Tăng cường không gian công cộng để tổ chức các sinh
hoạt cộng đồng, qua đó truyền tải ý nghĩa và giá trị di sản đến với cộng đồng,
tạo thói quen và ký ức cho cộng đồng về
di sản văn hóa.
- Phát triển du lịch địa phương, các dịch vụ cho du lịch,
các nghề thủ công, sinh hoạt văn hóa, lễ hội, thậm chí cả lối sống nếp sống của
cộng đồng cũng là một sản phẩm du lịch.
- Gia tăng giá trị bất động sản tại khu vực di sản văn
hóa, bởi sự thu hút khách du lịch và phát triển hoạt động thương mại dịch vụ
cho du lịch. Ngày nay khu vực trung tâm đô thị, trung tâm tôn giáo của một
vùng... là nơi lưu giữ đậm đặc các giá trị văn hóa đồng thời còn mang lại cho bất
động sản giá trị kinh tế cao hơn gấp nhiều lần.
- Tôn vinh những người sở hữu hay có quyền sử dụng, quản
lý khu vực di sản mà thực hiện việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản. Những cá
nhân, tổ chức này được cộng đồng quý trọng và thừa nhận là người giàu có về tiền
bạc đồng thời có phẩm chất văn hóa cao.
- Truyền thông có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
ngăn ngừa và phát hiện hành vi hủy hoại di sản. Khi cần bảo vệ di sản và cứu
vãn giá trị di sản văn hóa thì truyền thông có trách nhiệm kêu gọi dư luận xã hội,
đồng thời phản ánh những tiếng nói của công luận một cách khách quan và toàn diện.
Sài
Gòn 21.5.2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét