DẤU ẤN VĂN HÓA ĐÔNG SƠN Ở NAM BỘ - VIỆT NAM

  (trích tham luận tại HTKH 100 năm phát hiện và nghiên cứu văn hóa Đông Sơn, 1924 - 2024)

Thời đại kim khí Việt Nam có ba trung tâm văn hóa phát triển rực rỡ: Đông Sơn ở miền Bắc, Sa Huỳnh ở miền Trung và Đồng Nai ở miền Nam. Mỗi trung tâm có truyền thống và bản sắc riêng, thông qua giao lưu văn hóa – kỹ thuật mỗi nền văn hóa đã lưu lại dấu ấn đặc biệt của các nền văn hóa khác.

Vùng đất Nam bộ đã phát hiện một số di vật thể hiện dấu ấn của văn hóa Đông Sơn, tuy ít ỏi nhưng là hiện vật đặc trưng của nền văn hóa này. Tìm hiểu về giao lưu văn hóa có thể nhận thấy ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn đến những vùng xung quanh tùy thuộc vào mức độ tương đồng và khác biệt với những nền văn hóa ở đó. Những dấu ấn của văn hóa Đông Sơn ở Nam bộ phản ánh mức độ và cách thức văn hóa Đồng Nai tiếp nhận những ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn.

....

Cơ sở của sự giao lưu văn hóa Đông Sơn và văn hóa Đồng Nai

Đây là hai nền văn hóa hình thành và phát triển chủ yếu ở lưu vực hai con sông lớn: sông Hồng và sông Đồng Nai, là tiền đề của hai nền văn minh. Do đó chúng đều có ý nghĩa lịch sử và giá trị văn hóa quan trọng như nhau. Từ những yếu tố cơ bản của một nền văn hóa khảo cổ, có thể nhìn nhận một số tương đồng và khác biệt của hai nền văn hóa này[1].

Địa hình cư trú của dân cư văn hóa Đông Sơn, văn hóa Đồng Nai.

Xuất phát của hai nền văn hóa này đều từ vùng trung du – đồi phù sa cổ của sông Hồng/sông Đồng Nai. Giai đoạn phát triển cuối – sơ kỳ sắt – thì hệ thống di tích đã lan rộng đến tận ven biển. Nếu văn hóa Đông Sơn lấy sông Hồng làm tuyến phát triển chính, bên cạnh đó còn có lưu vực sông Mã, sông Cả thì văn hóa Đồng Nai cũng lấy lưu vực sông Đồng Nai làm tuyến chính, cùng với đó là lưu vực sông Bé và sông Vàm Cỏ.

Văn hóa Đông Sơn và văn hóa Đồng Nai đều có thể phân chia thành những “loại hình” theo địa lý: Đông Sơn núi/đồng bằng/ven biển; Đồng Nai đồi bazan/phù sa cổ/ngập mặn. Trong đó, dân cư văn hóa Đông Sơn phát triển đời sống phong phú nhất ở đồng bằng sông Hồng còn dân cư văn hóa Đồng Nai có đời sống phong phú nhất là vùng ven biển, vì sông Đồng Nai chưa kịp tạo lập được một vùng đồng bằng như sông Hồng. Đồng thời, vùng cửa sông Đồng Nai nằm trên tuyến đường biển vùng ĐNA có mối quan hệ giao lưu sôi động trong thời hậu kỳ kim khí.

Về quan hệ giao lưu và lan tỏa của hai nền văn hóa Đông Sơn, Đồng Nai

Văn hóa Đông Sơn có xu hướng giao lưu theo dòng chảy của sông Hồng từ phía bắc xuống; trong khi đó ảnh hưởng và giao lưu ở văn hóa Đồng Nai nổi rõ yếu tố từ biển Đông vào. Đến giai đoạn sơ kỳ sắt yếu tố văn hóa lục địa khá nổi trội trong văn hóa Đông Sơn (thể hiện qua những bộ sưu tập công cụ – vũ khí đồng/sắt) còn trong văn hóa Đồng Nai yếu tố văn hóa biển càng rõ ràng (nhất là qua đồ trang sức và đồ gốm của nhóm di tích Giồng Cá Vồ/ Giồng Phệt/ Giồng Lớn/ Gò Ô Chùa).

Trong mối quan hệ với với văn hóa Sa Huỳnh – trung tâm kim khí ven biển miền Trung và là “vùng đệm” thì mối liên hệ Đông Sơn – Sa Huỳnh không nhiều: vài ngôi mộ vò trẻ em, một vài trang sức thủy tinh, khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu, tìm thấy chủ yếu ở khu vực giáp ranh (Bắc Trung bộ). Có lẽ đây là sản phẩm của giao lưu trao đổi. Còn văn hóa Đồng Nai lại có quan hệ chặt chẽ và nhiều chiều với văn hóa Sa Huỳnh: thể hiện trên đồ gốm, trang sức, táng thức mộ chum; khu vực giáp ranh Nam Trung bộ (Hòa Diêm – Khánh Hòa) càng đậm nét. Tuy nhiên, cần nhìn nhận mối quan hệ này biểu hiện sự “đồng quy văn hóa” của các nền văn hóa Biển, thể hiện qua hệ thống các di tích ven biển và hải đảo Đông Nam Á mà W. Solheim đã chỉ ra trong truyền thống gốm Sa Huỳnh – Kalanay.

          Táng thức mộ chum/vò (Sa Huỳnh và Đồng Nai) hay táng thức mộ thuyền (Đông Sơn) tuy khác nhau về hình thức nhưng cùng phản ánh một tín ngưỡng về cái chết. Trong các mộ chum ở Cần Giờ có chôn theo “cà ràng” – loại bếp gốm độc đáo dùng trên ghe, thuyền; nắp đậy mộ vò ở hang Manungui đảo Palanwan ở Philippines có núm cầm hình thuyền với 2 người đang chèo, hay mộ quan tài hình thuyền trong văn hóa Đông Sơn… đều thể hiện ý nghĩa: quan tài hình thuyền hay mộ chum/vò đều tượng trưng cho “phương tiện” chuyên chở linh hồn qua thế giới bên kia. Trong ý nghĩa này văn hóa Đông Sơn và Cần Giờ – Đồng Nai gần nhau hơn vì cùng tục chôn nguyên thi thể.

Kỹ thuật luyện kim: Di tích văn hóa Đông Sơn và văn hóa Đồng Nai đều không tìm thấy nhiều công cụ, vũ khí bằng sắt, khác với văn hóa Sa Huỳnh đồ sắt khá phổ biến, hầu hết là đồ tùy táng tìm thấy trong mộ chum. Tuy nhiên văn hóa Đông Sơn và Đồng Nai có kỹ thuật đúc đồng phát triển đến đỉnh cao: nhiều di tích là công xưởng, phổ biến khuôn đúc hai mang, khuôn đúc liên hoàn… Trong các loại vũ khí thì cả Đông Sơn và Đồng Nai đều có “qua đồng” – một loại hiện vật được coi là có nguồn gốc từ phía văn hóa Hán. Một hiện vật nguồn gốc văn hóa Hán có mặt trong cả ba nền văn hóa là gương đồng.

Đặc biệt trống đồng “kiểu” Đông Sơn trong văn hóa Đồng Nai có trường hợp sử dụng rất đặc biệt:  Trống đồng được sử dụng làm nắp đậy chum trong táng thức “mộ chum gỗ” ở Phú Chánh (Bình Dương) là sự kết hợp hai yếu tố đặc trưng của hai văn hóa. Ngoài ra trong những chum gỗ còn tìm thấy bộ “công cụ dệt gỗ” 23 hiện vật gồm trục dệt, dao dệt, lược chải sợi và các thanh có nấc. Đây là những kết cấu của loại khung dệt mà hiện nay một số dân tộc ít người ở Tây Nguyên và Đông Nam Á vẫn còn sử dụng[2], cả ở ĐNA hải đảo[3].

Về truyền thống văn hóa tạo dựng nhà nước sơ khai thời đại kim khí: Nền văn minh sông Hồng phát triển trên cơ sở kỹ thuật luyện kim trình độ cao và nông nghiệp lúa nước, được định danh là “văn minh lúa nước” và trở thành truyền thống “bốn ngàn năm”. Văn hóa Đông Sơn trở thành cốt lõi của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc và được “tái hiện” trong văn minh Đại Việt sau một ngàn năm “Bắc thuộc”.

          Văn minh sông Đồng Nai phát triển trên cơ sở kinh tế nông nghiệp nương rẫy và giao lưu “kinh tế biển”; sau này vương quốc Phù Nam phát triển trên nền tảng nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long sự thịnh đạt của cảng thị Óc Eo - Nền Chùa. Văn hóa Đồng Nai với những di tích “Tiền Óc Eo” là nguồn gốc bản địa của văn hóa Óc Eo thời Vương quốc Phù Nam.  Khi vương quốc Phù Nam sụp đổ, “truyền thống” Óc Eo còn kéo dài thêm nhiều thế kỷ, không thể không có vai trò cội rễ của văn hóa Đồng Nai.

Yếu tố “biển” trong văn hóa Đồng Nai phổ biến trong hệ thống các di tích thời sơ kỳ sắt ven biển Đông nam bộ và tái hiện mạnh mẽ trong văn hóa Óc Eo. Trong văn hóa Đông Sơn yếu tố bin không phải là chủ đạo tuy có loại hình Đông Sơn ven biển, nhưng “nguồn gốc biển” lại hiện diện trong truyền thuyết khởi nguồn Âu Cơ và Lạc Long Quân.

Như vậy, từ sự tiếp cận môi trường sinh thái và đặt trong bối cảnh văn hóa rộng hơn, những tương đồng và khác biệt của văn hóa Đông Sơn và văn hóa Đồng Nai đã chứng minh cho sự đa dạng của đời sống và văn hóa các nhóm dân cư thời tiền sử trên đất nước ta. Sự tương đồng hay khác biệt đều xuất phát từ “thế ứng xử” với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội – trong đó có những mối quan hệ giao lưu nhiều chiều của chủ nhân hai nền văn hóa này. Những tương đồng là điều kiện cần có để thực hiện quá trình giao lưu văn hóa, để có thể tiếp nhận những gì phù hợp và tiến bộ, thúc đẩy sự phát triển nội tại và toàn khu vực. Những khác biệt là điều kiện cần đủ để có các cách thức khác nhau trong chọn lọc, thay đổi những gì tiếp nhận từ một nền văn hóa khác, từ đó tạo ra yếu tố mới mang đặc điểm riêng, độc đáo. Duy trì và phát triển sự khác biệt độc đáo góp phần cho sự đa dạng của toàn khu vực ĐNA. Cả văn hóa Đông Sơn và văn hóa Đồng Nai đều có những đóng góp quan trọng như vậy.


[1] Nguyễn Thị Hậu, 2014, Văn hóa Đồng Nai và văn hóa Đông Sơn – Những tương đồng và khác biệt. HTKH kỷ niệm 90 năm phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn. Bảo tàng lịch sử quốc gia. Hà Nội

[2] Hồ sơ Bảo vật quốc gia Bộ dụng cụ dệt gỗ Phú Chánh – Bình Dương. Cục Di sản văn hóa.

[3] Kết quả khảo sát của tác giả và đồng nghiệp tại Hoa Liên, Đài Loan, tháng 3.2024. Hoa Liên là nơi có một số cộng đồng dân cư bản địa, họ vẫn bảo tồn những nghề truyền thống như săn bắt, dệt vải... Công cụ dệt vải của họ khá giống những hiện vật tìm thấy trong mộ chum Phú Chánh ( Bình Dương). Hoa Liên cũng là nơi có những di tích chế tác đá ngọc, mà nhiều trang sức bằng đá ngọc trong văn hóa Đồng Nai có xuất xứ nguyên liệu từ đây.

TS. Nguyễn Thị Hậu






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

TỪ MÙA THU CÁCH MẠNG

  https://congan.com.vn/tin-chinh/tu-mua-thu-cach-mang_182033.html Nguyễn Thị Hậu Mỗi năm gần đến ngày Quốc khánh 2/9 – là ngày Độc Lập th...