Yếu tố Biển – sự đồng quy văn hóa của giai đoạn “tiền Óc Eo” ở Nam bộ và Văn hóa Sa Huỳnh

 NGUYỄN THỊ HẬU

Trích bài đăng trong THÔNG BÁO BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUỐC GIA, 2019

...

Nhìn trên bản đồ Đông Nam Á, biển Đông có thể coi như một vùng “biển kín” bởi sự che chắn của lục địa châu Á và các quần đảo kéo dài từ Đài Loan qua Philippine đến Borneo. Trong biển Đông có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, do đó vào thời tiền sử con đường giao thông để thực hiện giao lưu, thương mại được thực hiện ven biển theo các dòng hải lưu chịu ảnh hưởng của địa hình vùng biển và do chế độ gió mùa quyết định. Đông Nam Á còn được gọi là khu vực “Châu Á gió mùa” nên cư dân cổ đã tận dụng điều kiện này để di chuyển từ đảo, quần đảo vào đến liền và ngược lại.

Hiện tượng giống nhau giữa hang Tabon, Hòa Diêm và Giồng Cá Vồ/Giồng Phệt, phần nào cả Giồng Lớn, đặt trong không gian địa lý từ quần đảo Palawan vào vùng biển từ Khánh Hòa đến Cần Giờ sự “án ngữ” của quần đảo Trường Sa với hàng trăm đảo, bãi ngầm bãi cạn... “Nối” các di tích này với nhau theo “đường chim bay” tạo ra một tam giác có ba đỉnh là Tabon – Hòa Diêm – Giồng Cá Vồ /Giồng Phệt mà cạnh đáy của tam giác này rất hẹp. Các nhóm cư dân này khó có thể liên hệ với nhau theo đường thẳng vượt qua quần đảo Trường Sa nhiều bất trắc. Trong khi đó lại có những dấu hiệu cho biết về một con đường vòng theo ven biển phía Nam ĐNA từ quần đảo Philippines qua bán đảo Malaysia, khu vực Borneo và ngược lại, thể hiện bằng những di tích mộ chum đồng đại mang nhiều nét tương đồng ở Philippine, Indonesia, An Giang, Cần Giờ, Hòa Diêm...

....

Như vậy, mộ chum/vò hiện diện khá rõ ràng ở phía Nam ĐNA, con đường di cư/di chuyển ven biển giữa những địa bàn này là “tác nhân” quan trọng của hiện tượng này. Sự giao thoa văn hóa giữa các nhóm cư dân cùng thời, cùng trình độ phát triển, cư trú trên địa  bàn kề cận nhau là hiện tượng mang tính quy luật. Sự giống nhau về táng thức và táng tục hay là thực chất mối quan hệ của các di tích Hòa Diêm, Cần Giờ và các di tích Tabon, Kalanay ngoài quần đảo Philippine cần được nhìn nhận vượt ra ngoài phạm vi hạn hẹp của từng nền văn hóa khảo cổ, nó cần được xem xét trong một không gian biển – ven biển – hải đảo rộng lớn và không chia cắt, vì  đó là không gian sinh tồn chung của các nhóm cư dân Đông Nam Á thời nguyên thủy.

3. Văn hóa Sa Huỳnh và “văn hóa Cần Giờ” nói riêng và giai đoạn “tiền Óc Eo” nói chung đều mang nhiều yếu tố thể hiện mối liên hệ mật thiết với khu vực đảo, quần đảo Đông Nam Á và xa hơn. Đó là những dữ liệu quan trọng để tìm hiểu về nguồn gốc chủ nhân và mối quan hệ của các nền văn hóa trong bối cảnh rộng lớn của Đông Nam Á chứ không chỉ bó hẹp trong phạm vi địa lý “lãnh thổ Việt Nam” ngày nay. Biển Đông từ thời xa xưa cho đến nay luôn có một vị trí quan trọng trong sự phát triển của khu vực, là con đường mang đến những yếu tố “ngoại sinh” thúc đẩy các nhóm cư dân sơ kỳ đồ sắt phát triển sang một thời kỳ mới, như là từ văn hóa Sa Hùynh phát triển đến văn hóa Champa và nhà nước Lâm Ấp – Champa ở miền Trung, từ văn hóa Đồng Nai, cụ thể là từ giai đoạn “tiền Óc Eo” đến văn hóa Óc Eo ở Nam bộ và nhà nước Phù Nam.

Mỗi văn hóa khảo cổ cần được đặt trong dòng chảy của một bối cảnh và truyền thống văn hóa rộng hơn để có thể nhận biết “chuỗi tiến hoá liên tục những nguồn lực nội sinh. Song... không xem thường những nguồn lực ngoại sinh đến qua biển. Cái lý luận cổ điển “nội sinh quyết định ngoại sinh phù trợ” đã được làm mềm dẻo đi ở cảng Cần Giờ và các cảng thị miền Trung với dải văn hóa Nam đảo và luồng buôn bán quốc tế ven bờ biển Đông” (Trần Quốc Vượng, 1998).

Đấy chính là nội hàm của mối quan hệ giữa văn hóa Sa Huỳnh với các văn hóa cùng thời, trong đó có văn hóa Đồng Nai mà đại diện là các di tích thuộc giai đoạn “tiền Óc Eo” ở Nam bộ.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

VĂN HOÁ THỊ DÂN Ở THÀNH PHỐ MỚI

  Nguyễn Thị Hậu Thành phố Đà Nẵng hiện nay bao gồm TP. Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam, tuy cùng trong vùng văn hoá “Xứ Quảng” lâu đời nhưng là...