Nguyễn thị Hậu
1.
Di
sản tư liệu là những tài sản quan trọng của quốc gia. Chất liệu và hình thức của di sản tư liệu rất phong
phú, đa dạng: từ chất liệu đá, đồng, vàng, bạc... cho đến gỗ, giấy, vải... trải
dài suốt lịch sử nước ta. Từ khi chữ viết xuất hiện và phổ biến (bao gồm cả chữ
Hán, Nôm, chữ quốc ngữ), rồi sau này là các hình thức lưu giữ thông tin khác
như hình ảnh, ghi âm, ghi hình và hiện nay có thể coi thông tin lưu giữ trên
internet cũng là một dạng di sản tư liệu… Có thể nhận thấy số lượng và nội dung
của di sản tư liệu ngày càng tăng theo cấp số nhân.
Từ di sản tư liệu
chúng ta có thể tìm hiểu
về lịch sử, văn hóa, kinh tế- chính trị, nhất
là các lĩnh vực xã hội của cả nước hay từng địa phương. Bên cạnh một lượng
lớn di sản tư liệu được lưu giữ ở các dòng tộc, gia đình và tại không ít di
tích đình, đền, chùa... phần lớn các di sản tư liệu quý do các cơ quan lưu trữ của
Nhà nước bảo quản. Tuy nhiên, việc bảo vệ và phát huy các giá trị của “kho tàng
lịch sử” này đang còn nhiều bất cập, nhất
là khối lượng rất lớn di sản tư liệu do cá nhân và cộng đồng lưu giữ.
Miền trung Việt Nam nói chung (từ Đà Nẵng đến Bình Thuận)
và “xứ Quảng” nói riêng có quá trình lịch sử - văn hóa độc đáo. Đặc điểm nổi bật
là từ thế kỷ 15 trở về trước xứ Quảng là trung tâm quan trọng nhất của vương quốc
Cham pa. Từ thế kỷ 15 trở về sau đây là vùng có nhiều lớp cư dân và văn hóa tộc
người “chồng lấn” lên nhau, quá trình giao lưu – tiếp biến mạnh mẽ chủ yếu giữa
người Chăm và người Việt, khu vực cảng thị Hội An còn có thêm người Hoa, người
Nhật. bên cạnh đó còn có các yếu tố văn hóa của các tộc người Trường Sơn – Tây
Nguyên. Đây là cơ sở tạo nên sự phong phú và độc đáo của hệ thống di sản tư liệu
ở đây.
2.
Từ góc độ khảo cổ học – ngành khoa học phát hiện và khai
quật, nghiên cứu các di tích di vật dưới lòng đất và trên mặt đất – có thể nhận
biết di sản tư liệu ở Xứ Quảng bao gồm những loại hình sau.
- Thời kỳ vương quốc Cham pa: di sản tư liệu để lại thường
là di vật tại đền tháp Cham pa, chủ yếu là “văn bản” chữ viết, bao gồm các bi
ký bằng đá, ít hơn là chữ viết trên vật dụng dùng trong nghi lễ như đồ đồng,
vàng, bạc… Khu vực Ninh Thuận – Bình Thuận còn có “kinh sách lá buông”, ngoài
ra còn chữ viết trên một số chất liệu khác nhưng không còn tồn tại đến ngày
nay. Cùng với tôn giáo và tổ chức nhà nước, chữ viết Cham pa xuất hiện khá sớm
và đều bắt nguồn từ Ấn Độ. Vì vậy, sự tồn tại của loại hình di sản này không chỉ
hữu ích cho việc nghiên cứu về một nền văn minh, một vương quốc cổ từng hiện diện
trên lãnh thổ VN thống nhất ngày nay, mà còn hữu ích cho nghiên cứu lịch sử
quan hệ giao thương – văn hóa của ĐNA và Ấn độ cổ đại.
Từ cuối thế kỷ 15 với sự hiện diện của chính quyền Đại Việt,
xứ Quảng đã có nhiều đợt lưu dân người Việt đến đây, bắt đầu quá trình đan xen,
giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa hai cộng đồng cư dân Chăm – Việt. Di sản tư
liệu không chỉ là chữ viết Chăm pa mà còn là chữ Hán, từ thế kỷ 17 về sau có
thêm chữ quốc ngữ… Hệ thống di tích, di vật ngoài đền tháp Cham pa còn có những
kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng khác, như đình, chùa, hội quán, nhà thờ họ… Tại
đó lưu giữ nhiều hoành phi, câu đối, bài vị, mộc bản, bia đá, chuông, khánh đồng
có minh văn… phản ánh lịch sử di tích, qua đó phản ánh lịch sử và văn hóa của một
cộng đồng. Không chỉ có chất liệu gỗ, đồng mà thời kỳ này đã phổ biến tài liệu
bằng giấy gồm kinh phật, gia phả, tác phẩm văn học, ghi chép về lịch sử, du lịch…
Nhiều lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội được phản ánh qua những tài liệu
này.
Đặc biệt, Hội An là cảng thị lớn nhất Đàng trong nổi bật
với kinh tế ngoại thương. Đô thị cổ Hội An là một khu vực chứa đựng rất nhiều
di sản tư liệu. Nguồn tư liệu hiện lưu trữ tại địa phương (Trung tâm QLBT DSVH
Hội An và các ban ngành liên quan ở Hội An) như hồ sơ di tích, các số liệu thống
kê (về di tích, dân số và biến động dân cư, tình trạng quản lý, bảo tồn, phát
huy giá trị di tích), văn tự cổ lưu trữ tại các di tích (giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà đất, khế ước mua bán nhà đất, khế ước gán nợ, gia phả,… ); văn tự chữ
Hán (bi kí, minh văn trên hiện vật, di chúc,),… liên quan đến người Hoa và các
kiến trúc của cộng đồng… Bên cạnh đó là nguồn tư liệu thời sau như tư liệu
thành văn là chính sử, địa chí, ghi chép của người nước ngoài (phương Tây,
Trung Quốc và Nhật Bản). Các công trình khoa học đã ấn hành, như: sách chuyên
khảo, kỷ yếu hội thảo, luận án, luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học, bài viết...
Nghiên cứu từ khảo cổ học về di tích kiến trúc cổ ở Hội
An – trong đó có những di sản tư liệu - góp phần nghiên cứu lịch sử Xứ Quảng
nói riêng và miền Nam nói chung. Di tích và tư liệu đã phản ánh lịch sử quy hoạch
đô thị thời trung–cận đại tại thương cảng Hội An; bức tranh lịch sử các cộng đồng
dân cư và sự đa dạng văn hóa của Hội An và xứ Quảng.
3.
Từ thế kỷ XVI – XIX, do nhiều nguyên nhân lịch sử – xã hội,
cùng với vị trí địa lý và những điều kiện khác về tự nhiên và xã hội, Đàng
Trong của quốc gia Đại Việt – mà vùng đất đầu tiên là Xứ Quảng – đã trở thành
nơi tiếp nhận nhiều cộng đồng dân cư đến làm ăn, sinh sống rồi cư lâu dài và gắn
kết với mảnh đất này.
Trong tiến trình lịch sử mở rộng lãnh thổ của Đại Việt, xứ
Quảng có vai trò đặc biệt quan trọng và có bề dày lịch sử cùng sự đa dạng về
văn hóa. Di sản văn hóa nói chung và di sản tư liệu nói riêng của Xứ Quảng phản
ánh lịch sử các cộng đồng dân cư có những hoạt động kinh tế - xã hội như nông
lâm ngư nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, nghề y dược...
Theo chân đoàn di dân, các phong tục, tập quán, văn hóa, tín ngưỡng của các cộng
đồ cư dân cũng bắt rễ và phát triển trên vùng đất mới. Nhiều tôn giáo tín ngưỡng
phát triển mạnh mẽ và là chỗ dựa tinh thần cho các cộng đồng dân cư. Tất cả đời
sống văn hóa – xã hội ít nhiều đều được lưu lại qua di sản tư liệu.
Từ góc độ khảo cổ học cần quan tâm điều tra, nghiên cứu
di sản tư liệu được lưu giữ tại các đô thị hình thành thời thuộc địa (như Đà Nẵng,
Tam Kỳ…) để hiểu rõ về quy hoạch xây dựng và văn hóa đô thị thời cận – hiện đại;
Khảo sát điều tra, ghi nhận tư liệu di sản tại nhà ở, công trình công cộng, công
trình tôn giáo (nhà thờ công giáo, tin lành)… của các cộng đồng tộc người ở miền
núi xứ Quảng/miền Trung và Tây Nguyên trong các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Quá đó có thể nhận diện một cách đầy đủ và khách quan về di sản văn hóa khu vực
này. Trên cơ sở đó các ngành liên quan đề xuất những phương thức bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa một cách hiệu quả nhất. Bởi vì dsản văn hóa là
nguồn lực to lớn đối với sự phát triển bền vững của Xứ Quảng và của cả nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét