TTO - Tuyến đường Lê Lợi (quận 1, TP.HCM) vừa được tái lập sau 8 năm bị rào chắn để thực hiện dự án metro. Thông tin này được người dân TP đón nhận với nhiều cảm xúc.
TÁI LẬP TUYẾN ĐƯỜNG LÊ LỢI: TẠO SINH KHÍ MỚI CHO VÙNG DI SẢN
NGÀY ĐỘC LẬP, NHỚ CHA !
Đạo diễn sân khấu, Nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Ngọc Bạch
Nguyễn Thị Hậu
Mỗi năm gần đến ngày Quốc khánh 2/9 – là ngày Độc Lập, như trong gia đình ông bà tôi vẫn gọi – tôi lại nhớ đến những gì ba tôi thường kể về những ngày đi theo “tiếng gọi sơn hà” từ tháng tám năm 1945.
1.
Ba tôi kể rằng, nhà ông nội tôi khá nghèo, phải mướn ruộng của địa chủ để làm. Dù thiếu trước hụt sau nhưng ông bà nội cũng ráng chắt bóp dành dụm cho con đi học. Vì quá lao lực nên ông nội bị đau phổi. Sau một ngày lặn lội ngoài đồng, ông nội tôi về nhà nằm dài, hai tay ôm ngực, ho khúc khắc cả đêm. Ba tôi từ lúc năm, sáu tuổi đã biết trông em nhỏ để bà nội làm việc nhà, xay lúa giã gạo... Lớn hơn một chút, được đi học ở trường làng một buổi, ngoài giờ học còn phụ má làm vườn, rồi học bài tới khuya.
Từ nhỏ ba tôi đã rất mê coi hát. Mỗi lần có gánh hát tới diễn tại đình làng là ông lại nôn nao không học hành gì được. Không tiền mua vé, có lần ông lén chui vô coi ké, bị bắt được, bị đánh… Mặc, ông vẫn mê coi hát vì tiếng đờn câu ca quyến rũ. Sau những đêm coi lén cải lương, hát bội ở đình, ông thường trằn trọc không ngủ được. Ông tiếp tục hình dung cuộc đời các nhân vật trong vở hát vừa chấm dứt... để rồi ngủ thiếp trong sự thất vọng không bao giờ biết những con người “bí ẩn oai hùng” đó sẽ như thế nào.
Nhờ được ông nội cho đi học sớm, bác Ba tôi lại học giỏi nên từ trường làng trên Cù Lao Giêng (An Giang) bác đã thi đậu vào trường “nhà nước” Collège de Mỹ Tho (Tiền Giang), được học bổng nên đỡ phần nào cho gia đình. Rồi bác Ba tôi thi đậu vào trường Y, học ở Hà Nội và qua Pháp, sau khi tốt nghiệp thì về làm bác sĩ ở Sài Gòn. Bác Ba thay ông bà nội nuôi các em tiếp tục ăn học. Cho đến khi ba tôi tốt nghiệp trường sư phạm, trở thành một thầy giáo trẻ.
Đầu tiên ba tôi tôi về dạy học ở Cái Răng, một thị trấn nhỏ – nay là một quận của thành phố Cần Thơ. Sau đó được đổi về dạy ở quê nhà, trường huyện Chợ Mới – An Giang. Sau này nhà văn Nguyễn Quang Sáng – đồng hương và cũng là bạn thân của ba tôi – nhớ lại thời gian đó như sau.
“ Khoảng năm 1942, thầy Nguyễn Ngọc Bạch về dạy ở trường tiểu học huyện Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên, nay là An Giang. Thầy dạy lớp nhì một năm, tôi học lớp nhì hai năm. Tôi không học trực tiếp với thầy nhưng gần gũi với thầy hơn các học trò của trường. Là thầy nhưng thầy có “máu đờn ca xướng hát”. “Thầy mà cũng biết đờn tụi bây ơi!”, thầy giáo mà biết đờn đối với đám học trò chúng tôi là một điều lạ – Sau buổi học chiều, học trò lớp nào cũng được, hễ thích hát thì thầy dạy. Thầy dạy hát với tiếng đàn “banjo” nghe dòn tan. Trường chúng tôi nằm ngoài phố chợ, lặng lẽ bên hàng cây “dái ngựa”. Tiếng hát của bọn trò nhỏ chúng tôi cứ vang xa, vang xa. Chính thầy là người mang niềm vui qua tiếng hát cho một phố huyện buồn. Rồi thầy tuyển chọn một số trong chúng tôi, thầy lập gánh hát, ngày hè, thầy dẫn chúng tôi đi khắp nơi, chúng tôi đi đến đâu dân làng vui đến đó…”
Ba tôi cũng viết trong hồi ký : “ Trước năm 1945, khi còn là một thầy giáo dạy ở trường quận, tôi đã mê diễn kịch, tôi hăng hái tập cho học trò hát những bài như: Tiếng gọi thanh niên, Bạch Đằng Giang, Kinh cầu nguyện, Xếp bút nghiên… Hè năm 1943, tôi tổ chức một đêm diễn: có hài kịch ngắn, có đồng ca, có đơn ca và bản thân tôi cũng tham gia diễn kịch. Buổi diễn khá thành công. Tôi viết thư về báo cho tía tôi. Tía ghi chú vào chỗ giấy còn trống trong thơ: “Tía coi thơ này mà rùng mình, rợn óc cho tương lai của con. Nếu tạo vật dắt đường cho con đi về con đường hát xướng thì đời con sẽ vất vả, nhưng mạng vận biết sao ? ”.
Ba tôi thường nói, ông mê nghề hát một phần nhưng mê được đi đây đi đó, đến những vùng đất lạ tới hai, ba phần. Nghề hát sẽ cho ông thỏa mãn cả hai đam mê đó. Nhưng ông nội tôi theo đạo Phật, thường dạy con cái về nhân nghĩa nhưng cần an phận thủ thường. Mà cuộc đời “xướng ca vô loài” như quan niệm thời ấy thì quá nhiều bất trắc, “xảy nhà ra thất nghiệp”...
2.
Cách mạng tháng Tám, rồi ngày 23.9.1945 kháng chiến Nam Bộ bùng nổ, ba tôi được Ủy ban tỉnh An Giang giao cho việc thành lập Đoàn kịch Cứu quốc. Khi nghe ba tôi xin phép, ông nội tôi suy nghĩ một hồi rồi nói : “ Tía xem đời Cụ Hồ chẳng khác nào như đức Thích Ca. Cụ là người như vậy, mà cụ cho hát, chắc là hát có ý nghĩa. Trào Tây, hát là xướng ca vô loại. Bây giờ, hát cho Chính phủ Cụ Hồ là hát cứu nước. Tía đồng ý cho con đi hát ”.
Ngày đó, khi đồng ý cho hai người con là bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng và ba tôi theo Việt Minh, ông nội đã khấn trước bàn thờ Phật “ Hôm nay con đưa hai con đi theo Cụ Hồ đánh Tây giành độc lập, không để cho thằng Tây ngồi lên đầu lên cổ dân mình. Con cháu có gì sai quấy mong Cụ dạy bảo. Cầu trời Phật ông bà phù hộ cho con cháu bình an ! ”. Giản dị vậy thôi! Năm 1947 ông nội tôi bị Tây bắn chết vì không chịu gọi hai người con đi kháng chiến trở về.
Đối với ông nội tôi, Cụ Hồ là người đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc. Bác tôi, ba tôi và nhiều trí thức Nam bộ thời đó dù được học bổng của chính quyền Pháp để thành bác sĩ, thầy giáo, kỹ sư, luật sư, công chức… nhưng nhờ có học nên họ hiểu rằng không ai có quyền áp bức bóc lột ai, họ tiếp nhận văn minh phương Tây để hiểu về Tự do, Bình đẳng, Bác ái giữa các quốc gia, họ đấu tranh chống lại chính quyền thuộc địa vì nền độc lập của đất nước mình. Sự giác ngộ đầu tiên của ba tôi và nhiều người cùng thế hệ ông là niềm tin vào tấm gương Cụ Hồ vì dân vì nước, dù chưa hiểu biết nhiều về “lý tưởng cộng sản” nhưng là những người yêu nước, mục tiêu vì Độc lập Dân tộc là ước nguyện và niềm tin của những trí thức Nam bộ. Vì vậy họ đã tham gia Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp.
Kể từ ngày đó, ba tôi và đoàn hát của ông đã vượt qua chín năm dài khó khăn và ác liệt, đi bộ chèo ghe băng đồng lội nước lưu diễn khắp miền Tây Nam Bộ. Cũng trong những ngày này ba tôi đã sáng tác nhiều ca khúc như Hồn thiêng chiến sĩ, Tuyên truyền lưu động, Làn sóng dân chủ, Tháp Mười anh dũng... Nhưng trong đó ca khúc Cương quyết ra đi sáng tác ngày đầu khánh chiến là một bài hát được nhiều người yêu thích và thuộc lòng. “ Cờ Việt Nam bao năm nhuộm máu hùng anh... Ta ra đi mùa thu xa xưa ấy, vung gươm thiêng ta cắt đứt đường tơ vương ”. Sau này khi biết ba tôi là tác giả bài hát, có người nói vui “ tại Cương quyết ra đi của anh mà tui đi theo kháng chiến đó ! ”. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng nhớ lại : “ Kháng chiến. Học trò trở về trường nhưng thầy không dạy nữa, thầy đã vào bưng biền rồi, thầy đã “Cương quyết ra đi” như lời bài hát đầu tiên của thầy vang trên khắp nẻo đường kháng chiến. Thầy lập đoàn hát “Cứu quốc đoàn”, “Tuyên truyền xung phong” từ sông Tiền dài xuống sông nước vùng đất U Minh, từ đó thầy gắn cuộc đời mình với sân khấu, từ Nam ra Bắc rồi từ Bắc trở về Nam cho đến hết cả cuộc đời ”.
Tại bưng biền miền Tây, theo chỉ đạo của bác Ba tôi lúc đó là Giám đốc Sở Y tế Nam bộ – bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng sau này là Bộ trưởng bộ Y tế nước VNDCCH – ba tôi lập đoàn “Truyền bá vệ sinh”, ông sáng tác những vở kịch, bài ca vui nhộn, sinh động mà rất khoa học để tuyên truyền cho đồng bào giữ vệ sinh nhà ở, nhà tắm, cầu tiêu, giữ sạch môi trường sinh sống như kinh rạch, vườn tược, góp phần bảo vệ sức khỏe và tránh các dịch bệnh... Không nề hà bất cứ nhiệm vụ gì được giao, các đoàn hát của ông đi đến đâu cũng được đồng bào, chiến sĩ yêu mến, trông đợi... Nhờ đó, ông cũng “tuyển” được nhiều “diễn viên”. Sau này một số cô chú tập kết ra miền Bắc và trở thành những nghệ sĩ nổi tiếng.
3.
Năm 1954, theo sự phân công của tổ chức, ba tôi cùng nhiều đồng nghiệp đi tập kết. Hồi ký của ông viết : “ Lần đầu tiên có chuyến đi xa nhưng không một ai thiết nhìn phong cảnh. Chúng tôi vừa để lại phía sau những gì thân thương nhất, vừa lo âu không hiểu rồi đây tương lai của mảnh đất quê hương yêu mến sẽ ra sao, vừa băn khoăn cố gắng hình dung những nhiệm vụ nặng nề sắp đến, tự hỏi mình có gánh vác nổi hay không ? Tàu Xta-vơ-rô-pôn cập bến Sầm Sơn vào một buổi sáng mùa đông, gió lạnh chạy dài trên bãi biển. Đông đảo đồng bào nồng nhiệt đón tiếp chúng tôi. Trống ếch rập rùng, nhưng lòng chúng tôi đau quặn vì thấy bà con ăn bữa cháo bữa rau mà vẫn dành cho những đứa con miền Nam cơm đầy thịt đủ ”.
Kế tiếp là những năm dài ông thường xuyên vắng nhà vì những chuyến lưu diễn khắp nơi của Đoàn Cải lương Nam bộ, Đoàn kịch nói Nam bộ mà ba tôi làm trưởng đoàn: rừng núi Việt Bắc, đồng ruộng Khu Ba, khu mỏ Quảng Ninh, giới tuyến Hiền Lương, đường 559 Trường Sơn… Cho đến tháng 4.1975 ông được trở về Sài Gòn, về An Giang quê hương yêu dấu sau hơn hai mươi năm “ngày Bắc đêm Nam”.
Trên đây là những gì tôi được nghe ba tôi kể lại và vài đoạn trong hồi ký của ông. Từ một thầy giáo “ham đờn ca hát xướng”, ông đi kháng chiến đánh Tây giành độc lập bằng cách góp công sức làm nghệ thuật phục vụ đồng bào, chiến sĩ. Ông luôn nói với tôi: Cuộc đời ba có may mắn lớn là vừa được tham gia kháng chiến vừa được thỏa niềm đam mê đi hát của mình ! Ông đã làm người nghệ sĩ – chiến sĩ cho đến cuối đời.
Câu chuyện đi theo cách mạng của ba tôi và của nhiều chú bác cùng thời rất tự nhiên và giản dị như lẽ sống đời thường, nhưng đã cho chúng tôi hiểu sâu sắc một điều : “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” là mục tiêu của nhà nước ra đời vào ngày 2/9/1945, cũng là lý tưởng thiêng liêng của những người tham gia cách mạng thuộc thế hệ “mùa thu rồi ngày hăm ba”. Họ dũng cảm chiến đấu chống ngoại xâm và hết mình lao động xây dựng tổ quốc, không màng danh lợi, là vì hơn ai hết, họ hiểu giá trị của nền Độc lập chỉ trọn vẹn khi nhân dân được Tự do và Hạnh phúc ! Chừng nào nhân dân chưa được hưởng Tự do và Hạnh phúc như những giá trị phổ quát của nhân loại thì đất nước còn chưa có được một nền Độc lập mà những thế hệ trước đã hy sinh xương máu, tính mạng và tài sản của cải để giành lấy.
Hình ảnh tư liệu gia đình:
Ba má tôi ở Hà Nội, cuối năm 1971.
NHỮNG NHỎ BÉ THƯƠNG MẾN NGÀY XƯA
Tặng các chị em và các cháu gái <3
Nguyễn Thị Hậu
Những ngày giáp tết nhà nào cũng có cảm giác sao nhiều việc thế,
nôn nao chưa xong việc này đã thấy việc khác trước mắt. Rồi thì bà thì mẹ “bỗng
dưng” cứ à với ồ, sau những cái à ồ ấy thế nào bọn trẻ cũng có thêm vài việc vặt...
phổ biến nhất là dọn dẹp quét tước nhà cửa, rồi giặt giũ chăn màn chiếu gối, rồi
gọt thái củ quả làm mứt, làm dưa góp dưa món... Những việc vặt thôi nhưng để
làm thì phải có những vật dụng quen thuộc, hàng ngày đã cần thì ngày tết lại càng
cần hơn.
Thời bao cấp trong các khu tập thể cao vài tầng gác, mỗi nhà thường
có một cái “chổi lúa” quét nhà. Nhà ai dưới đất hay ngoài phố thì có thêm cái “chổi
rễ” quét sân, dọn cống rãnh. Những cái chổi thường cái cán ngắn, nếu không tìm
được đoạn tre buộc vào cho cán dài hơn thì phải khom mỏi lưng để quét. Tôi nhớ
trong phim hay trên sân khấu kịch hay có cảnh “người mẹ (người bà) dừng tay
quét, đưa tay ra sau đấm đấm lưng, mắt nhìn xa xăm như chờ người đi xa về ăn tết”.
Chỉ vài nhà có thêm cái chổi lông gà
(thường để phủi bụi bàn ghế), đến tết lại vất vả đi tìm cành tre dài nối vào
quét mạng nhện. Chưa kịp làm mà cả xóm mượn vòng quanh thì đến khi nhà dùng chổi
lông gà đã rụng rơi gần hết.
Thời ấy nhà ai cũng chật, ngoài cái giường đôi cái tủ quần áo còn
lại tất tật tống vào gầm giường kê cao thêm bằng mấy hòn gạch. Nền nhà tráng xi
măng hay may mắn có “gạch hoa” thì luôn được lau sạch sẽ, mùa đông mùa hè đều bỏ
guốc dép ngoài cửa. Việc lau nhà thường dùng khăn mặt hay áo may ô cũ bằng vải
dệt kim thấm hút nước tốt, ngồi xổm và kéo lê cái chậu cái xô vòng quanh để lau
hai ba lượt. “Bò ra mà lau nhà” là bình thường.
Những ngày mưa dầm hay sau tết giời nồm, quần áo giặt phơi không
bao giờ khô, âm ẩm lành lạnh, vài ngày đã có mùi ẩm mốc. Khổ là giặt xong chỉ
phơi ngang dọc trên đoạn dây phơi ngắn trong nhà hay ngoài hiên, nhà có trẻ con
nhiều quần áo còn phơi chồng lên nhau, chị em phơi đồ lót phải phủ áo lên trên
“cho kín đáo”... Gần tết mà trời hửng nắng thì quanh bể nước nhộn nhịp người
múc nước người giũ xả chăn màn người giặt chiếu, rồi phơi la liệt bất cứ chỗ
nào có thể. Chiều tối có nhà để bếp than tổ ong trong nhà để hong tã lót em bé,
nhà kín đáo hơn cắm bếp điện dù điện yếu đoạn dây “mai-so” chỉ hồng hồng một
chút.
Mỗi khi làm bếp nhiều cô gái sợ phải gọt củ quả bằng dao con, vụng
tay hay dao cùn thì gọt vỏ bí bầu mướp hay bị sứt sẹo trông hết cả ngon lành lại
còn bị mẹ mắng. Thỉnh thoảng nhà ăn rau sống, nhìn mớ rau muống tự chẻ có thể biết
con gái nhà này có khéo tay không. Có lúc người ta nghĩ ra việc gài cái kim
băng ở đầu mũi dao để canh độ dày mỏng, gọt vỏ bầu bí mướp hay chẻ rau vừa
nhanh vừa đẹp. Nhưng không phải ai cũng làm thế vì sợ bị chê là “vụng”, là “vẽ
chuyện”.
Những thứ bất tiện ấy cứ tồn tại mãi trong cuộc sống, một thời
quen thuộc đến mức “đương nhiên”, không ai thấy sự mất công là phiền phức,
không thấy cần phải “cải tiến” hay thay đổi cho thuận tiện hơn - dù trong lao động
sản xuất thì luôn có phong trào thi đua “cải tiến kỹ thuật” sao cho “nhanh nhiều
tốt rẻ”. Hàng ngày làm công việc nội trợ, phụ nữ “đảm đang khéo léo” chăm chỉ cứ
phải luôn tay luôn chân. Nếp cũ thế nào thì người sau làm vậy, “cần cù bù thông
mình” được coi là một lời khen ngợi, động viên.
***
Bắt đầu từ “thị trường” hàng hóa phong phú đa dạng ở miền Nam, sau
thời bao cấp hàng tiêu dùng sản xuất ngày càng nhiều, chất liệu, mẫu mã được cải
tiến, thay đổi phù hợp và thuận tiện hơn cho người dùng. Đáp ứng nhu cầu thị
trường làm cho cuộc sống ngày càng tiện nghi hơn.
Chỉ chuyện cái chổi cái giẻ thôi, bây giờ biết bao loại chổi, giẻ
lau nhà? Bên cạnh “chổi đót” phổ biến nhất còn có thêm chổi bằng sợi nilon giả
đót, hình dáng màu sắc y hệt nhưng không bị rụng bông ra nhà, lại bền hơn. Chổi
nào cũng có cán dài vừa tầm, có thêm cái hót rác và giỏ rác xinh xắn bằng nhựa
đủ màu, trong nháy mắt nhà cửa sạch sẽ. Công sở có bộ chổi và ky hót rác gắn liền
giúp chị lao công đỡ vất vả. Gần tết thế nào cũng có mấy ông bán chổi rong, tiếng
loa pin oang oang “chổi lông gà chổi quét nhà” cụt ngủn chứ không ngân nga “chổi
các loại đâyyyyy”... như ngày xưa. Gác dọc chiếc xe máy hay xe đạp là những cây
chổi muôn màu sắc đã có cán dài ngắn khác nhau, chổi lông gà quét mạng nhện dài
nhất, từ xa đã thấy những túm lông rực rỡ báo hiệu sắp đến những ngày bận rộn dọn
dẹp quét tước.
Siêu thị, ngoài chợ bán rất nhiều loại cây lau nhà đủ màu sắc và chất
liệu, loại nào cũng có cán dài vừa tầm đứng, có thể nhẹ nhàng đẩy lau mọi ngóc
ngách. Từ loại miếng giẻ sợi cố định ở đầu cây lau đến loại có thể thay được miếng
giẻ mới... nay thì phổ biến là combo cây lau nhà có thể xoay tròn và thùng đựng
nước lại biết vắt khô giẻ lau. Nếu mà có “Huân chương vì sự nghiệp giải phóng
phụ nữ” thì tôi sẽ ủng hộ việc tặng thưởng cho phát minh ra combo này.
Khâu giặt giũ thì đã có máy giặt gia đình và cửa hàng giặt sấy có
luôn ủi là gấp gọn nữa. Quần áo ngày một nhiều hơn nhưng đã có những chiếc móc
áo tiện dụng, một lúc phơi được nhiều quần áo thẳng thớm, kín đáo và đẹp mắt.
Xưa ít nhà có móc áo bây giờ móc nhựa móc nhôm hay inoc, lớn nhỏ, dài ngắn. Tã
lót em bé đã có dàn phơi tròn có nhiều cái kẹp, tha hồ kẹp tất bao tay khăn tã
quần áo... Lại còn “dàn phơi thông minh” lắp đặt sẵn linh hoạt kích thước, phơi
chăn màn rất tiện. Từ nông thôn đến căn hộ ở thành phố, việc sử dụng móc áo đã
tiết kiệm một cách có hiệu quả không gian phơi quần áo, làm cho trong nhà gọn
gàng ngăn nắp và cảnh quan chung văn minh hơn.
Trong bếp bây giờ không thể thiếu con dao bào, thậm chí có nhiều
kích cỡ khác nhau. Không còn phải mắm
môi mắm lợi đưa con dao đi cho khéo mà vẫn bị đứt tay, giờ thì củ quả gọt xong
láng mướt ngon lành. Lại có thêm dao cắt tỉa hoa lá... món xào món nấu, hũ dưa
chua dưa góp vừa đẹp vừa ngon. Ngày giỗ ngày tết “chấp hết” hàng rổ củ quả nhé,
phụ nữ vẫn khoe tài khéo léo mà đỡ vất vả hơn nhiều.
Những vật dụng nhỏ bé này có mặt bên ta hàng ngày, ít người để ý
cho đến khi thấy... thiếu, vì nó cần thiết cho công việc nội trợ nói nói chung
và phụ nữ nói riêng. Tuy không phải là máy móc hiện đại hay đồ dùng đắt tiền,
chức năng cũng đơn giản, nhưng nhờ luôn được cải tiến nên người dùng đỡ mất
công sức và thuận tiện hơn, mang lại tâm lý thoải mái khi làm việc nhà. Cuộc sống
tốt đẹp hơn có khi bắt đầu từ việc nhà cửa gọn gàng bếp núc ngăn nắp, khi công
việc nội trợ hàng ngày trở nên nhẹ nhàng và thoải mái.
“Bình đẳng giới” không chỉ là thay đổi quan niệm phong kiến về nữ
giới, không phải là “giải phóng” họ khỏi cái bếp hay cây chổi, giẻ lau... Mà
còn là và cần hơn là làm sao cho phụ nữ được thực hiện thiên chức “bếp núc” của
mình một cách thoải mái, thuận tiện, dễ dàng, để họ có thể giữ gìn sức khỏe, niềm
vui, mang lại hạnh phúc lâu dài cho gia đình. Thực hiện bình đẳng giới hay giải
phóng phụ nữ không chỉ là khẩu hiệu hay văn bản pháp luật, mà nó bắt đầu từ sự
quan tâm và thay đổi những việc nhỏ bé nhưng cụ thể và tinh tế như vậy.
“THÀNH PHỐ HƯỚNG BIỂN” XƯA VÀ NAY
https://laodong.vn/kinh-doanh/thanh-pho-huong-bien-xua-va-nay-1080230.ldo
Nguyễn Thị Hậu
1.
Thành phố Hồ Chí Minh có mặt tiền là biển Đông. Đó là 15km bờ biển thuộc
huyện Cần Giờ, hai vịnh Gành Rái (sông Lòng Tàu) và Đồng Tranh (sông Soài Rạp)
là cửa ngõ nối liền thành phố, miền Đông Nam bộ với biển Đông. Khu vực Cần Giờ
thể hiện rõ nhất tính chất sông nước, biển và ven biển của vùng đất Sài Gòn xưa.
Sài Gòn có một hệ thống sông lớn nối liền các vùng đất liền ra
cửa biển nên từ thời xa xưa nơi đây đã có sự giao lưu mạnh mẽ với các khu
vực khác qua đường biển. Quá trình khai phá vùng đất Sài Gòn và Nam
bộ, những người dân từ nơi khác đến nơi này bằng đường biển là chủ
yếu, sau đó theo các dòng sông đi sâu vào đất liền và định cư trên
khắp đồng bằng sông Cửu Long.
Vị trí địa lý của Cần Giờ khá đặc biệt, đó là vùng cửa
sông – vịnh biển mang tính chất “mặt tiền” của lưu vực Đồng Nai rộng lớn, lại
là “trạm trung chuyển” giữa hai miền lưu vực sông Vàm Cỏ – sông Đồng Nai hay
hai vùng Tây Nam Bộ – Đông Nam Bộ. Câu ca dao “Nhà Bè nước chảy chia hai –
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về” xuất hiện muộn vào thời những đoàn lưu dân
lênh đênh trên sông nước, ngược từ vịnh biển Cần Giờ vào miền Gia Định – Đồng
Nai. Nhưng từ thời tiền sử, cư dân cổ Cần Giờ chọn vị trí “cửa sông vịnh biển”
để cư trú, góp phần hình thành một quy luật của “làng Nam Bộ” là định cư trên
giồng cao nơi “giáp nước”, nơi gặp nhau giữa nước thủy triều chảy ngược và nước
sông chảy xuôi, ghe xuồng ngược xuôi buôn bán thường nghỉ lại đây chờ con nước.
Làng mạc mọc lên… ở đâu là nơi giáp nước, ở đó trên bờ là thị tứ, chợ búa…
Tính chất sông nước không chỉ là yếu tố tự nhiên, mà còn
tạo ra đặc trưng của nền kinh tế đô thị Sài Gòn: buôn bán bằng đường thủy, hình
thành hệ thống bến cảng, kho bãi, nhà máy, công xưởng ven sông. Đồng thời tăng
cường tính chất cởi mở “hướng biển” giao thương với nhiều nơi khác, thúc đẩy
kinh tế phát triển và góp phần vào sự phong phú, đa dạng của văn hóa thành phố.
2.
Cần Giờ hai ngàn năm trước là
một “cảng thị”
cổ, nơi tiếp thu và chuyển hoá nhiều yếu tố văn hoá – kỹ
thuật từ bên ngoài, đồng thời cũng là nơi tích tụ và phát tán những yếu tố văn
hoá bản địa.
Hệ thống di tích khảo cổ
học ở Cần Giờ cho thấy vào thời tiền sử, cách
đây khoảng 2500 năm cư dân nơi này không phải là cư dân nông nghiệp trồng trọt
như nhiều cộng đồng cư dân cùng
thời. Người cổ ở Cần Giờ có đời sống kinh tế khá đặc biệt: phát triển thương mại đường sông đường biển
kết hợp hoạt động khai thác tự nhiên. Những di vật thể hiện mối
quan hệ giao thương với nhiều vùng khác cho biết Cần Giờ
là một “cảng thị sơ khai”, nơi tiếp thu và chuyển hoá nhiều yếu tố văn hoá – kỹ
thuật từ bên ngoài, đồng thời cũng là nơi tích tụ và phát tán những yếu tố văn
hoá bản địa.
Bước vào thời đại kim khí khoảng 2500 năm trước, lưu vực sông Đồng Nai đã là một trung tâm nông nghiệp, quy
tụ lượng tài vật khá lớn của phía nam bán
đảo Đông Dương. Dựa lưng vào một hậu phương rộng lớn và trù phú như vậy, “cảng
thị” Cần Giờ đã có một nền tảng kinh tế – xã hội vững chắc để tồn
tại và phát triển. Tuy nhiên, cư dân cổ Cần Giờ không hoàn toàn phụ thuộc vào hậu
phương mà tự thân họ đã tạo dựng một trung tâm thủ công nghiệp. Sản phẩm của họ mang tính chất hàng hoá, đặc biệt là những mặt hàng quý như đồ gốm có hoa văn đặc
sắc, đồ trang sức như khuyên tai hai đầu thú,
khuyên tai 3 mấu bằng đá ngọc và thủy
tinh, hạt chuỗi mã não, hạt vàng, mảnh vàng có hoa văn… có mặt tại các di tích sâu trong lưu vực Đồng Nai là kết
quả của mối quan hệ mật thiết với cửa biển Cần Giờ. Từ những nơi khác xa hơn ngoài biển nhiều sản phẩm và kỹ thuật sản xuất đã đến Cần Giờ, như
khu vực văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung nước ta, quần đảo Philippine, Đài Loan…
xa hơn nữa về phía Nam như quần đảo Indonesia, bán đảo Malaysia… đặc biệt yếu
tố kỹ thuật Ấn độ trong chế tác mã não, thủy tinh rất rõ ràng và độc đáo.
Đời sống trên biển của cư
dân cổ Cần Giờ thể hiện ở loại hình bếp lò gốm (cà ràng), một vật dụng quan trọng đã được của cư dân cổ chôn theo
trong mộ táng. Đây là loại bếp gốm dùng phổ biến trên ghe
xuồng hay nhà sàn của cư dân sông nước Nam Bộ, cũng là vật dụng quen thuộc của cư dân nhiều nơi ở
Đông Nam Á.
Các nền văn hoá khảo cổ thời kỳ tiền sơ sử ở
Đông Nam Á đã cho thấy Biển Đông không phải là yếu tố ngăn cách và cô lập các
tộc người ở khu vực này, mà trái lại là “chiếc cầu” nối liền các tộc người ven
biển với nhau, liên kết giữa Đông Nam Á hải đảo và Đông Nam Á lục địa, giữa
Đông Nam Á với những vùng xa hơn trong Thái Bình Dương bao la. Mối quan hệ giao lưu rộng rãi của “cảng thị”
Cần Giờ là một trong những yếu tố kích thích sự phát triển của văn hoá Đồng Nai
thời tiền sử đạt đến cực thịnh, góp
phần quan trọng vào quá trình hình thành văn minh Óc Eo ở đồng bằng sông Cửu Long từ đầu
Công nguyên.
Cần Giờ là huyện duy nhất của TP. Hồ Chí
Minh có diện tích rừng lớn, “lá
phổi xanh” của thành phố. Rừng ngập mặn Cần Giờ được Unesco công nhận là Khu dự
trữ sinh quyển thế giới với hệ động thực vật đa dạng điển hình. Chính vì vậy
việc bảo vệ môi trường ở Cần Giờ rất quan trọng. Cần Giờ còn có một hệ thống di tích Khảo cổ học quý giá về
mặt khoa học và có ý nghĩa lớn về mặt lịch sử - văn hóa. Vì vậy đô thị biển Cần Giờ phải được phát triển
theo tiêu chí vừa là đô thị hiện đại, vừa bảo toàn môi
trường sinh thái tự nhiên và hệ thống di sản văn hóa có giá trị cao. Quy họach
phát triển đi đôi với bảo tồn một cách hài hoà sẽ phát huy có hiệu quả giá trị
của hệ thống di sản văn hóa Biển đặc sắc ở Cần Giờ.
3.
Thành phố Thông thoáng,
Thông thương và Thông minh. Từ đầu năm 2022 TP. Hồ Chí Minh đã đẩy nhanh
và hoàn thành việc chỉnh trang khu vực bến Bạch Đằng, mang lại diện mạo hiện
đại cho nơi này, đồng thời mở ra hướng quy hoạch chỉnh trang toàn bộ “mặt tiền”
sông Sài Gòn, sông Đồng Nai đoạn qua
thành phố, nhằm thay đổi cả hai bên bờ sông không chỉ ở
đoạn trung tâm mà xa hơn, về phía Đồng Nai, Bình
Dương hay ra phía Nhà Bè, Cần Giờ. Sự THÔNG THOÁNG không chỉ là cảnh quan một vùng đất mà
còn là một đặc trưng về tính cách con người, tinh chất nền kinh tế của thành
phố.
Do quá trình hiện đại hóa nên hệ thống bến –
cảng công nghiệp đã di dời ra khỏi nội thành. Tuy
nhiên, nếu TP. HCM mất tính chất “cảng thị” thì sẽ mất đi
một nguồn lực kinh tế cũng như nguồn lực văn hóa có được nhờ tính chất giao lưu
tiếp nhận những yếu tố mới từ bên ngoài, qua hệ thống cảng thị. Tính chất
“cảng” làm duy trì và phát triển sự cởi mở, năng động của thành phố. Vì vậy,
bên cạnh khu vực cảng kinh tế thì khu vực cửa sông – vịnh biển Gành Rái – Cần
Giờ - Vũng Tàu nên trở thành cảng du lịch lớn nhất, “cửa ngõ” quốc tế của thành
phố (bên cạnh đường hàng không là sân bay Tân Sơn Nhất và sau này là sân bay
Long Thành). THÔNG THƯƠNG là một đặc
trưng quan trọng có được từ vị trí địa lý và sự tận dụng, phát huy của người
Sài Gòn từ hàng trăm năm trước.
TP. Hồ Chí Minh đang xây
dựng một Thành phố THÔNG MINH không
chỉ từ những khu công nghệ cao phần mềm hay từ việc ứng dụng, sử dụng thành quả của công nghệ thời 4.0 và
trí tuệ nhân tạo. Mà sự thông minh đầu tiên là nhận biết những bài học hữu ích
từ quá khứ: từ những lợi thế tự nhiên các thế hệ
tiền bối đã sử dụng để mang lại sự phát triển thịnh
vượng và bản sắc riêng độc đáo của đô thị Sài
Gòn.
Trong quá trình hình thành và phát triển vùng
đất Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh, nhờ luôn hội tụ và phát huy những lợi thế về vị
trí địa lý, sự giao thương rộng rãi với bên ngoài và nguồn lực vật chất của lưu
vực Đồng Nai – Cửu Long, “cảng thị sơ khai” Cần Giờ xưa kia, cảng Bến Nghé
thời Nguyễn, cảng Sài Gòn trong thế kỷ XX, và hiện nay là hệ thống cảng biển
của TP.HCM đã giữ vững vai trò quan trọng trong những giai đoạn lịch sử khác
nhau. Đó là một đặc trưng mang tinh chất
lợi thế mà hầu như không có một đô thị biển nào ở
nước ta có được.
NGÔN NGỮ QUÊ NHÀ hay là "TIẾNG MẸ ĐẺ CHA SANH"
1.
BIÊN GIỚI THÁNG HAI - Tác giả: HUY ĐỨC
Hôm nay 17/2/2025, đăng lại bài này của nhà báo Huy Đức (Trương Huy San), người đang trong vòng lao lý BIÊN GIỚI THÁNG HAI Tác giả: HUY ĐỨ...
-
Người Việt có một số thành ngữ và sự tích liên quan đến cá trê, như truyện Trê Cóc chẳng hạn. Câu chuyện không chỉ là việc Trê tranh giàn...
-
Một người bạn fb bất ngờ ra đi. Post bài thơ rất hay của bạn. Tôi biết Cao Hải Hà qua mạng Yahoo blog và sau là FB. Vài lần gặp Hà ở chỗ ...
-
Khi mới làm quen với FB Lặng lẽ nước Nga, tôi đã mạo muội đề nghị được xem lại bộ phim “Con đường đau khổ” – phim truyền hình 13 tập dựa t...