Nguyễn Thị Hậu
1.
Trong không gian sông nước miền Tây Nam bộ
cảnh quan làng xóm Nam bộ rất độc đáo: phân bố trải dài theo sông rạch, nhà cửa
quay mặt ra sông rạch đón gió mát ngày hai lần “nước lớn” do chế độ bán nhật
triều. Lối cư trú nhà sàn ven sông, ven kênh rạch thích hợp với vùng ngập nước,
khí hậu ẩm thấp và thuận tiện cho giao thông đường thủy.
Lưu trông theo sông rạch, phương tiện chủ yếu
là ghe xuồng xuôi ngược nhờ nước lớn nước ròng. Các bến neo đậu ghe xuồng
“chờ con nước”, nơi ngã ba ngã tư các con sông dần hình thành thị tứ, chợ
búa. Tính chất cởi mở, giao lưu rộng rãi là đặc điểm xuyên suốt quá trình
phát triển kinh tế – văn hóa Nam bộ qua nhiều giai đoạn lịch sử.
Thời
kỳ khai phá vùng đất Nam bộ lưu dân Ngũ Quảng vào Nam một cách tự phát, họ tập
hợp thành từng nhóm một vài gia đình hoặc cử những người khỏe mạnh đi trước đến
vùng đất mới, tạo dựng cơ sở rồi đón gia đình vào sau. Phương tiện chính là ghe
thuyền bởi lúc bấy giờ việc đi lại giữa các phủ miền Trung với vùng Gia Định chủ
yếu bằng đường biển. Cũng có những người chấp nhận mạo hiểm trèo đèo lội suối
đi bằng đường bộ, có khi ở lại một địa phương nào đó một thời gian rồi lại tiếp
tục tìm đến vùng đất mới Đồng Nai. Số này có lẽ ít hơn bởi đường đi quá gian
nan và mất nhiều thời gian.
Tiến
trình Nam tiến ngày càng mạnh mẽ và qui mô hơn, nhất là sau khi các chúa Nguyễn
thiết lập nền hành chính ở đất Gia Định (1698). Câu ca dao “Nhà Bè nước chảy
chia hai, Ai về Gia Định – Đồng Nai thì về” đã cho biết một con đường đi đến
vùng đất mới là từ cửa Cần Giờ ngược sông Đồng Nai đến ngã ba Nhà Bè, từ
đó dừng chân ở Bến Nghé - Sài Gòn, rồi từ đó theo sông, biển đi về đồng bằng
sông Cửu Long, hoặc theo sông Đồng Nai đi sâu vào vùng bán sơn địa miền Đông
Nam bộ.
Từ
cuối thời Nguyễn ở Nam bộ hình thành các thị tứ. Vị trí của các đô thị Nam bộ thường ở trung tâm của mạng
lưới giao thông đường thủy từng khu vực, tận dụng sự thuận tiện của hệ thống
sông, kênh rạch, đường biển… và những bến – chợ trước đó để hình thành các bến
cảng trong đó có những cảng thị quan trọng như Sài Gòn, Cù Lao Phố, Mỹ Tho, Ba
Vát (Bến Tre), Hà Tiên…sau này như Cần Thơ, Long Xuyên, Sa Đéc… Có thể nói tính
chất của đô thị Nam bộ là những “đô thị sông nước”, người ta biết đến đô thị ở
đây vì đó là những bến - chợ nổi tiếng với sự phong phú của hàng hóa,
sự giao lưu trao đổi buôn bán trù mật, sự đông đúc đa dạng của cư dân.
2. Nhìn
lại lịch sử khai thác đồng bằng sông Cửu Long từ khi lưu dân người Việt vào khẩn
hoang lập ấp, đến thời kỳ triều Nguyễn đẩy mạnh di dân, thời Pháp thuộc lập đồn
điền tích tụ ruộng đất… Có thể nhận thấy một đặc điểm là toàn vùng chưa bao giờ chỉ độc canh
cây lúa dù trồng lúa là kinh tế chính. Dân cư chọn phương thức sống thích ứng
với những “tiểu vùng” sinh thái ở đây (mà ở Nam bộ có một từ rất hay là
“miệt”): miệt ruộng (tứ giác Long Xuyên), miệt bưng biền (Đồng Tháp Mười), miệt
U Minh (rừng ngập mặn, Cà Mau) và miệt vườn (hạ lưu sông Tiền), miệt rẫy (Đông
nam bộ). Phương
thức kinh tế đa dạng: trồng lúa, trồng các loại cây phù hợp từng tiểu vùng,
khai thác thủy hải sản, khai thác tự nhiên...
Nam bộ có hai mùa mưa nắng, ở miền Tây nước ngọt cho
trồng trọt và sinh hoạt chủ yếu là nước mưa và từ sông Cửu Long. Trước đây khi diện tích trồng lúa có hạn
thì lượng nước ngọt vừa
đủ cung cấp cho
những cánh đồng trồng lúa, phần khác cho miệt vườn trồng cây ăn trái. Nay dân số và diện tích
trồng lúa đều tăng nhiều lần, mùa vụ cũng tăng trong điều kiện nguồn nước đang
cạn kiệt, nước mặn xâm lấn, vì vậy phương thức trồng trọt “độc canh cây lúa”
nhằm mục đích tăng sản lượng (để xuất khẩu) cần phải được thay đổi ngay.
Với tư duy thực tiễn, linh hoạt, tính cách thực
tiễn, dám nghĩ dám làm… người dân Nam bộ có thể “tự cứu”trong những hoàn cảnh
ngặt nghèo, nhưng nhiều
giải pháp chỉ là trước mắt hoặc mang tính tạm bợ (sự xuất hiện của loại xuồng “(một) năm quăng (bỏ)” hay thực trạng nhà cửa sơ sài như
hàng trăm năm qua, kể cả việc xây dựng các “khu dân cư vượt lũ” không gắn liền với môi trường sống
của người dân…). Do
đó, để Nam bộ có thể
phát triển bền vững
từ thực tiễn đời sống, cần bắt đầu từ sự thay đổi một quan niệm: không thể coi Nam bộ là vùng đất “luôn được thiên nhiên ưu đãi, con người làm chơi ăn
thiệt…”, vì
hiện nay dân số, mật độ dân số đã tăng lên rất nhiều. Tình trạng này có ảnh hưởng lớn đến
tư duy và làm thay đổi lối canh tác nông nghiệp truyền thống ở Nam bộ theo hướng khai thác cạn kiệt tài
nguyên đất và nước, từ đó tác động tiêu cực đến hệ sinh thái tự nhiên và sinh
thái nhân văn vùng đồng bằng sông Cửu Long.
3. Trên
đất nước Campuchia ngày nay lối cư trú nhà sàn của người dân vẫn còn được bảo lưu và phổ
biến, đặc biệt vùng ven sông, kênh rạch và vùng chịu ảnh hưởng của mùa nước nổi.
Đặc trưng là kiểu nhà trên những cây cột nhỏ và sàn khá
cao, cách mặt đất đến 3 – 4m, cầu thang gỗ dốc đứng bên ngoài ngôi nhà. Những
ngôi nhà sàn xây bằng vật liệu kiên cố như
cột bê tông, tường gạch
thay thế cho cột gỗ, nhằm đảm bảo sự bền vững đồng thời hạn chế sử dụng tài
nguyên thiên nhiên. Nhà
nước khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất vật liệu bền vững. Với sàn nhà cao, cầu thang xây có thêm “chiếu nghỉ” để giảm độ dốc, ngôi
nhà là sự thích nghi một cách “tối ưu” với điều kiện tự nhiên: mùa nắng
thì tránh được hơi nóng hầm hập bốc lên
từ mặt đất nứt nẻ, đồng thời đón gió mát cho trên nhà và
dưới sàn, mùa nước ngập thì nhà luôn cao vượt mặt nước
nên không phải “chạy lũ”, lại còn tránh được hơi ẩm, chuột bọ, rắn rít. Dưới
sàn nhà vẫn là không gian có thể sinh hoạt và để đồ đạc (ghe xuồng, nông cụ, có
khi là bộ ván hay bộ bàn ghế, chiếc võng mắc toòng teng…). Khi cần thiết có thể
dựng vách là tầng
dưới trở thành ngôi nhà một trệt một lầu khá tiện nghi. Đây
là một sự thích nghi từ việc duy
trì yếu tố truyền thống trong lối sống.
Gần đây, câu chuyện xuất khẩu lúa gạo của Campuchia cũng
không khỏi làm “giật mình” nhiều người Việt Nam. Có những nơi đã cử người sang
tìm hiểu cách làm, kinh nghiệm từ giống, phân bón, cách xây dựng thương hiệu… của
gạo Campuchia. Nhưng có một điều quan trọng: Campuchia không “tham” tăng vụ và
không trồng giống lúa “năng xuất” cao, họ chú trọng quy trình phát triển tự
nhiên của cây lúa và chất lượng lúa gạo. Đây chính là kinh nghiệm “thích nghi”
và “duy trì” điều kiện tự nhiên qua canh tác.
Giá
lúa gạo xuất khẩu của Thái Lan hay Campuchia ngày càng cao hơn vì chất lượng
chính là nông nghiệp phát triển bền vững, đồng thời qua đó còn tạo dựng uy tín
ngành nông nghiêp, khoa học nông nghiêp nói riêng và trình độ quản lý nhà nước
nói chung của hai quốc gia này.
4. Singapore là
thành phố của nhà cao tầng với kính màu và bê tông nhưng hầu như không kiến
trúc nào giống nhau, rất đa dạng và đẹp mắt. Là một quốc đảo không có nguồn nước ngọt nên phải mua và dẫn
từ Malaysia qua, do đó Singapore không chỉ quan tâm đến môi trường trong sạch mà còn phải tiết kiệm nước
bằng việc tận dụng nước mưa cho thấm xuống mạch nước ngầm qua hệ thống thu gom nước
mưa từ vỉa hè trồng cỏ đến những biên pháp kỹ thuật khác, đồng thời đẩy mạnh
kỹ nghệ lọc nước biển
cung cấp cho sinh hoạt.
Những khu nhà hiện đại mới xây dựng từ đầu thế kỷ 21 đến
nay hầu hết là nhà cao hai ba mươi tầng, đều có chung đặc điểm: tầng trệt khá
cao và để trống làm gare xe cho cả khu nhà, lầu 1 hoặc lầu 2 là không gian công
cộng: siêu thị,
bể
bơi, vườn cây nhỏ, khu cho trẻ em vui chơi… Cấu trúc tiện dụng như vậy nhằm tiết kiệm không gian, đồng thời chuẩn
bị thích nghi với sự biến đổi khí hậu: khi có thảm họa nước biển dâng
hay sóng thần sẽ giảm thiểu được
tác hại cho
con người.
Sự ứng phó với biến đổi khí hậu được
triển khai đến từng dự án xây dựng một cách cụ thể như vậy, qua đó người dân có
sự hiểu biết và ý thức với tình trạng này trong tương lai không xa. Nhìn những
tòa nhà xây dựng vững chãi trên những dãy cột cao có thể thấy kiến trúc này đã
tận dụng đặc tính “nhà sàn truyền thống” của Đông Nam Á là thích ứng với sự thách thức
của thiên nhiên. Đây là sự thích nghi của quốc gia hiện đại: “Sống chung với lũ” bắt đầu từ ý tưởng “phải thích nghi” và thực
hiện bằng biện pháp kỹ thuật hiện đại chứ không phải tư duy đối phó “di dời” đến vùng cao.
5.
Trong thời đại “toàn cầu hóa”
và bối cảnh biến đổi khí hậu đã trở thành hiện thực, sự tồn
tại của một dòng sông dù lớn như Mekông, chế độ và chất lượng nước của các con sông lớn ngày nay không còn
là vấn đề chỉ của Nam bộ hay Việt Nam mà là vấn đề của khu vực, thậm chí của thế
giới. Nguy cơ sông Mê kong cạn kiệt và đồng bằng
Nam bộ biến mất do nước biển dâng sẽ thành hiện thực trong một thời gian không
xa.
Địa hình sông nước ở Nam bộ là điều kiện tự nhiên vốn có
và đã bền vững
qua hàng ngàn năm. Tuy
nhiên miền Tây Nam bộ cần được thích ứng với
hoàn cảnh mới từ kinh nghiệm truyền thống và bài học
thời hiện đại của các công đồng cư dân và quốc gia có nền “văn hóa sông nước”: Sống tại chỗ, không bi
quan, bi thảm hóa những khó khăn,
tận dụng điều kiện tư nhiên để có
lối sống thích ứng và phương thức sản xuất phù
hợp với môi trường tự nhiên, bắt đầu tự sự thay đổi và
hiện đại hóa kỹ thuật, công nghệ chứ không
thể chống lại tự nhiên một cách duy ý chí. Thiên nhiên, dù bất lợi
đến đâu, nếu con người biết thích nghi và tận dụng thì thiên nhiên sẽ trở thành
“tài nguyên” có lợi cho cuộc sống con người.
Điều cần thiết và quan trọng nhất
hiện nay là tăng cường việc đầu tư lại, đầu tư thêm cho đồng bằng sông Cửu Long về mọi mặt, nhất là cơ sở hạ tầng
và an sinh xã hội,
đảm bảo “an cư lạc nghiệp” để phục hồi nguồn lực con người. Từ đó mới có thể
khai thác một cách tích cực những tiềm năng của vùng và thể hiện sự trân trọng những đóng góp to lớn của miền tây Nam bộ cho cả nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét