Vẫn còn nhớ nhau (7,8)

7.
Khi quen với nhiều bạn rồi nó càng lang thang nhiều hơn, dưới đồng trên bãi, ngoài sông trong đê, chỗ nào bọn trẻ nông thôn đến thì nó cũng đi theo. Đi theo trâu trên những triền đê, ven rặng điền thanh muồng muỗng thấp thoáng bướm vàng, chuồn chuồn kim… Đi hái rau muối trong ruộng ngô bãi ven sông vào những buổi sáng sớm còn mù sương, lạnh giá. Rau muối nhỏ xíu cánh lấm tấm trắng như những hạt muối tinh, phải hái sớm vậy mới ngon, nấu canh ngọt lừ không cần mì chính. Chị Hiền nó và chị Vân – bạn thân của chị Hiền, đi sơ tán một mình nên má nó bảo về ở chung nhà, rồi thành con cái trong gia đình nó – vẫn nói với nhau: cái Hậu trông nhõng nhẽo thế mà gì cũng biết, chả sợ gì cả.
Những buổi tối trời, nhất là sau trận mưa rào nó còn trốn má đi theo các chú làm chung cơ quan với má nó đi bắt cóc ếch về cải thiện. Chú Hài (thương binh, đi tập tễnh) và chú Thái là hai người bắt ếch cóc giỏi nhất, chỉ một lát là đầy cái thùng gánh nước mang theo. Hai chú đổ vào hầm tăng – xê để ăn dần. Ban ngày mới làm thịt cóc ếch vì phải cẩn thận: lột da, bóc sạch trứng và rút hết gân. Sau đó thịt ếch thì xào mặn ăn dần, còn thịt cóc thì bằm nát rồi xào để nấu cháo hay nấu bánh canh. Bánh canh làm từ bột mì, má nhồi bột, cán mỏng và sắt sợi, làm một nồi thật to, hai ba nhà ăn chung. Đến giờ nó vẫn nhớ hương vị nồi bánh canh bột mì sợi bánh bở bở, nước dùng sền sệt nhưng ngọt lắm. Đấy là thức ăn tươi hầu như duy nhất trong hơn hai năm sơ tán ở Chu Minh. Có lẽ được ăn thịt cóc ếch nhiều nên hồi nhỏ nó không hay ốm vặt, người tròn cui chắc nịch và… đen thui.
Hàng tháng má nó đạp xe về Hà Nội mua gạo mì mắm mỡ. Chiều thứ bảy về tối chủ nhật mới lên, đi cùng chú Hài chú Thái để lỡ dọc đường có máy bay hay việc gì bất trắc. Đạp xe ban đêm không đèn đường, đường quốc lộ xe ô tô không đèn kín lá ngụy trang chạy rầm rập nối đuôi nhau… Về đến Hà Nội khoảng 1,2 giờ sáng thì 4,5 giờ đã phải ra xếp hàng mua gạo mì, mua thịt mỡ… về nhà thắng mỡ cho vào chai, rồi ba nó buộc bao gạo mì lên xe đạp, chiều chủ nhật má lại đạp xe đi. Lần nào trở về nơi sơ tán má cũng nói: tưởng không về được đến nơi!
Đi sơ tán nhưng nó vẫn được má và các chị cưng chiều vì là con út. Bởi vậy nó cũng hay đành hanh cãi lại các chị. Một lần biết má sắp về Hà Nội, đêm đó nó ôm má thủ thỉ “má, mai má đừng về Hà Nội nhé!” – Má không về lấy gì ăn, phải về mua gạo mì chứ? – Má về, chị Hiền chị Vân bảo sẽ tẩn cho con một trận! Trời trời, nửa đêm má lôi hai chị dậy la: sao dọa em để nó sợ? Hai bà chị ngái ngủ càu nhàu: dọa thế cho nó sợ chứ ai đánh nó, rồi lăn ra ngủ tiếp. Nó ôm má ngủ mà vẫn phập phồng lo cho ngày mai không có “ô dù” che chắn.
Hai chị hay mắng nhưng yêu nó lắm, nhường nó tất cả giấy ngà ngà trơn nhẵn, lại dùng thước với bút chì kẻ dòng cho nó tập viết, còn các chị viết trên giấy đen thui đầy cọng rơm trên mặt giấy nhám. Chị Hiền nó học rất giỏi tất cả các môn nên rèn chữ đẹp cho nó, dạy nó làm toán. Một lần hai chị đọc vở của nó, thì thầm với nhau: cái Hậu tập làm văn hay ghê! Được cái nó học không chăm nhưng sáng dạ, năm nào cũng là học sinh giỏi.
Có một chuyện nó luôn biết ơn chị Hiền. Đó là chuyện chị không cho nó nói “giọng nhà quê”, “chửi cha không bằng pha tiếng”, chị bảo vậy! Ở đâu chỉ vài hôm là nó nói đặc giọng ở đấy, chị nghe thấy chỉ cần trừng mắt là nó khiếp vía… Nhờ vậy nó giữ giọng Hà Nội rất lâu. Lâu đến nỗi năm 1975 về Sài Gòn lúc 17 tuổi mà đến nay đã 40 năm nó vẫn một giọng “Hà Nội chuẩn”, dù nó chẳng coi là “chuẩn” và nếu có thì cái “chuẩn” ấy cũng bình thường thôi, nó nghĩ thế!
8.
Ở Chu Minh lúc đầu nhà nó ở nhờ nhà bác Hùng có con là cái Hoan bằng tuổi nó, nhưng nhà bác đông quá nên ít lâu sau mấy má con nó qua ở nhà chị Rau. Nhà chị ở phía sau nhà bác Hùng, cùng chung ngõ nhỏ chạy giữa một bên là hàng rào râm bụt thấp bên kia là cái ao nhỏ vuông vắn thường cạn nước.
Chị Rau khoảng 30 tuổi, ở một mình, thỉnh thoảng có bà vãi (mẹ chị) ở làng bên qua chơi vài ngày. Chồng chị là anh Trác đi bộ đội, anh chị cưới nhau vài năm rồi nhưng không có con. Chiến tranh, anh Trác nhập ngũ, chị ở nhà làm hợp tác. Má con nó ở nhà chị Rau gần một tháng thì về Hà Nội ăn tết, quay lên đã thấy chị xin được một đứa con nuôi còn đỏ hỏn, đó là cái Nhàn. Con bé dễ như củ khoai, không có sữa toàn uống nước cơm, được vài tháng thì ăn “cơm mớm”, càng lớn càng tròn quay và đen thui giống y như nó. Ai chê nó xấu thì chị Rau đều nói “xấu mà học giỏi như cô Hiền cô Hậu”. Chị Hiền còn dạy cái Nhàn nói câu “đen mà có duyên” khi nó bập bẹ học nói. Chị Rau đi làm cả ngày, nó tha cái Nhàn đi khắp nơi như chó mẹ tha chó con, trong nhà ngoài sân, ra vườn, ra cả sân kho hợp tác… Trưa nắng nóng chị Hiền chặt mấy tàu lá chuối trải trên nền nhà, hai đứa lăn lóc trên đó cho mát. Khi cái Nhàn biết bò rồi biết đi, nhanh như chớp đã lần ra đến bờ ao thành giếng, thế là nó liền lấy sợi dây buộc một chân cái Nhàn vào cột nhà, hai đứa ngồi chơi với nhau, nó cầm sách đọc như cuốc kêu còn cái Nhàn thì ê a đọc theo. Lúc đầu cái Nhàn còn thích thú, sau đó khóc ré lên, khóc chán lăn ra ngủ ngay cạnh cây cột.
Chiều mát, nó ra giếng kéo mãi mới đầy một chậu nước tắm. Vào nhà lấy quần áo quay ra đã thấy cái Nhàn mặt mũi người ngợm nhem nhuốc ngồi gọn trong chậu vùng vẫy tung tóe. Nó mếu máo: bắt đền chị Rau  lấy cho em chậu nước khác đi. Chị Rau kéo nước lên tắm cho cả nó và cái Nhàn, hai đứa tha hồ nghịch nước giếng mát lạnh đến tím môi và các ngón tay nhăn nheo mới chịu thôi.
Lần nào bà vãi (ở vùng này gọi bà ngoại là bà vãi) qua nhà cũng có quà cho nó. Khi là cái bánh đa khi khúc mía bắp ngô. Bà vãi hay ra sau nhà đào lấy củ rong riềng, được cả rổ đem luộc lên. Nó thích củ rong riềng lắm, củ màu xám trắng, thơm, ngọt, ăn mãi không chán. Bà vãi vẫn hay mặc váy đụp, quấn khăn mỏ quạ dù bà cạo trọc đầu, bà đã già lưng còng như trông vẫn dong dỏng, khác hẳn chị Rau người thấp đậm, mà cái Nhàn càng lớn càng giống chị Rau, chẳng ai biết nó là con nuôi. Mùa đông bà vãi cấy rau cần ở cái áo nhỏ cạnh nhà, khi rau ăn được thì phần mang ra chợ bán phần cho hàng xóm, phần muối dưa ăn dần. Rau cần mới cắt đem xào tái với chút mỡ tỏi, cọng rau ngọt lừ, thêm quả cà chua hồng vào nữa thì ăn với cơm nóng quên no. Nó rất thích lội xuống ruộng rau cần với bà vãi, nhưng hai chị nó thì không dám, vì sợ đỉa.
Một lần chồng chị Rau được về phép, hàng ngày anh bế cái Nhàn đi chơi khắp các nhà hàng xóm. Một buổi chiều đi làm về má nó thấy hai cha con ngồi trước bếp lửa, cái Nhàn không mặc quần áo, lạnh tím tái. Má nó hốt hoảng hỏi “sao anh không mặc quần áo cho con Nhàn để nó lạnh thế kia?”, anh Trác hồn nhiên bảo: nó ị hết ra người nên vừa tắm cho nó, hơ lửa cho khô. Đến đêm cái Nhàn cảm lạnh một trận tưởng chết, sốt cao co giật, mấy chị nó cùng chị Rau phải thay nhau bế nó chạy lên bệnh viện huyện trên phố Lả để cấp cứu. Một tuần sau cái Nhàn mới qua khỏi, gầy tọp. Ngày đón cái Nhàn về nó ôm chặt cái Nhàn đòi mang theo… ngày mai nó về Hà Nội, hết phải đi sơ tán rồi. Má nó mắt đỏ hoe, phải hứa sẽ đón em Nhàn về sau nó mới chịu. Từ đó nó không gặp lại cái Nhàn…

Bà vãi mất sau đó vài năm. Khoảng năm 1990 nghe nói anh Trác chị Rau cũng đã mất. Cái Nhàn kém nó 6 tuổi, bây giờ cũng ngoài 50, nếu còn ở Chu Minh chắc đã là bà nội bà ngoại rồi. Không biết nó còn nhớ đến “cô Hậu” vẫn bế nó ngày còn bé không…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NỖI ÁM ẢNH CỦA QUÁ KHỨ

  Trần Quốc Vượng   Nước Việt Nam ta hiện là một quốc gia kém phát triển về mọi mặt, vừa lạc hậu, vừa lạc điệu với một thế giới nhìn chung...