Bài đăng trên Lao Động số ra 30/4/2013
Những năm gần đây thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều thay
đổi: không còn những xóm nhà lá lụp xụp
nhếch nhác trên kinh nước đen, xây dựng những khu đô thị mới… Tuy nhiên sự thay
đổi này đã làm mất đi khá nhiều những dấu tích xưa cũ là “hồn vía” của Sài
Gòn. Nguy cơ trước mắt là cơn lốc đô thị hóa tràn lan hiện nay đã phá đi
khá nhiều di sản văn hóa thể hiện bản sắc Sài Gòn. Việc cố gắng bảo tồn
những di tích lịch sử văn hóa của một đô thị chính là xây dựng đô
thị hiện đại có một không gian sống với chiều sâu ký ức của nó. Sống
trong không gian đó con người sẽ giàu có hơn về mặt tinh thần khi họ
được thế hệ trước di truyền lại những ký ức về vùng đất mà họ
đang sống. Bảo vệ di sản văn hóa là để con người sống tốt hơn cho hôm nay chứ
không chỉ là bảo vệ một ý niệm nào đó của quá khứ dù đẹp đến đâu.
Những di sản lịch sử - văn hóa
đặc trưng
Sài Gòn là
đô thị sông nước: Sông Sài Gòn là giao thông đường
thủy quan trọng nhất, cảng Sài Gòn là cửa ngõ thông thương với nước ngoài. Hệ
thống kênh rạch dày đặc là những con đường huyết mạch để vận chuyển lúa gạo và
các loại nông sản, hàng hóa khác từ đồng bằng sông Cửu Long lên Cảng Sài Gòn để
xuất khẩu. Thương cảng Sài Gòn, từ góc độ
lịch sử có thể coi là đặc điểm chủ yếu của đô thị Sài Gòn.
- Hệ thống đường sông, kênh rạch ở Sài Gòn phục vụ cho sự phát triển của
nghề thủ công làm gốm nổi tiếng: “Xóm Lò Gốm” của Sài Gòn xưa còn lại dấu
tích là kênh Lò gốm, đường Lò Siêu, khu lò lu, bến mảnh sành, cầu lò chén… Vùng
Gốm Sài Gòn sản xuất nhiều loại gốm gia dụng và kiến trúc trang
trí độc đáo, rất được ưa chuộng ởViệt Nam.
- Hệ thống sông rạch làm nên cảnh quan “trên bến dưới thuyền” của Sài
Gòn: những con sông, kênh rạch với những bến sông nổi tiếng sinh họat buôn bán,
cảnh quan văn hóa đặc trưng: sông – bến chợ – phố chợ ven sông - làng ven
sông – giao thông đường thủy – ghe thuyền - cầu qua sông…
Hiện nay đại lộ Đông Tây được xây dựng đã mang lại vẻ đẹp hiện đại
cho thành phố, nhưng trả giá cho việc này là dọc hai bên sông – cũng là dọc
theo đại lộ, từ quận 6, quận 8, quận 5, đến quận 4, quận 1 những dãy nhà phố
liên kết kiểu thị tứ buôn bán biến mất, những tòa cao ốc đã và đang mọc lên.
Đâu rồi vẻ đẹp cổ xưa “trên bến dưới thuyền” sầm uất mà hồi giữa thế kỷ XX vẫn
còn được ghi nhận?
Sài Gòn là
đô thị của sự giao lưu và hội nhập văn hóa.
Sự
hình thành đô thị Sài Gòn là quá trình tụ cư và hội nhập văn hóa nhanh
chóng của người Việt, người Hoa với những tộc người bản địa. Trong quá
trình khẩn hoang lập ấp, phát triển sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp,
thương nghiệp… cư dân người Việt, người Hoa đã duy trì và phát triển những phong
tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của quê hương làm chỗ dựa tinh thần ở vùng
đất mới. Đình, chùa của người Việt; đền, miếu, hội quán của người Hoa; chùa của
người Khmer; nhà thờ của người Chăm Hồi giáo, nhà thờ Công giáo, Tin lành… thể
hiện sự đa dạng và hội tụ văn hóa của nhiều cộng đồng cư dân và những sinh hoạt
tinh thần của họ. Cùng với di sản văn hóa vật thể nói trên cư dân Sài
Gòn còn lưu giữ những di sản văn hóa phi vật thể: ẩm thực, trang phục, lối sống, ngôn ngữ, lễ hội, sinh họat của từng cộng đồng…Từ nửa sau thế
kỷ XX đến nay Sài Gòn là đô thị có lượng người nhập cư lớn nhất nước, văn hóa Sài Gòn ngày càng đa dạng phong phú.
Sài Gòn là
đô thị kiểu phương Tây:
Sài Gòn còn là nơi hình thành cơ sở công nghiệp đầu tiên, từ cuối thế kỷ
XIX Gòn trở thành một trung tâm công nghiệp ở phía Nam: nhà máy điện, nhà
máy nước, nhà ga và hệ thống đường xe lửa… Thành phố bắt đầu phát triển theo kiểu đô thị Tây phương bằng
chương trình quy hoạch khoa học và chi tiết. Từ cuối thế kỷ XIX các dự án thiết
kế và xây dựng Sài Gòn chủ yếu dọc theo cảng Bến Nghé, những gò đất cao quanh
đó mọc lên các công trình và trở thành khu trung tâm của thành phố. Đó là các
công sở, dinh thự, công trình công cộng như trường học, bảo tàng, rạp hát, chợ…
Nhiều công trình trong số đó đến nay vẫn còn giữa được công năng, là “dấu ấn
Sài Gòn” đối với người đi xa và người đến Sài Gòn. Cảnh quan đô thị khu trung
tâm thành phố là những con đường với hàng cây cao vút, những biệt thự mang vẻ đẹp
của kiến trúc cổ điển châu Âu nhưng gần gũi và đã trở nên quen thuộc, là một phần
không thể thiếu của thành phố.
Cũng như những thành phố khác, khi giải quyết mâu thuẫn giữa việc bảo tồn
kiến trúc cổ với việc phát triển công trình mới thì phần thiệt thòi luôn về
phía kiến trúc cổ. Chủ trương chính sách về bảo tồn di sản văn hóa của nhà nước
Việt Nam, của thành phố Hồ Chí Minh đã có nhưng việc thực thi chưa tốt. Nguyên nhân
thì có nhiều: trình độ quản lý đô thị thấp, nhận thức không đầy đủ về di
sản văn hóa đô thị, chưa có quy họach phát triển kinh tế – văn hóa mang tầm
chiến lược… Các ngành liên quan như văn hóa, kiến trúc, quy hoạch, xây dựng
chưa phối hợp đồng bộ trong việc bảo tồn di sản văn hóa đô thị và chưa thực thi đúng Luật di sản văn hóa
VN. Việc bảo tồn di sản văn hóa không chỉ có kiến thức khảo cổ, bảo tồn nói
riêng mà cần có sự kết hợp giữa nhà khảo cổ và kiến trúc sư tu bổ công trình
và người chủ dự án tôn tạo, dưới sự điều hành của chính quyền đô thị,
cùng vì một mục đích tối thượng là bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa.
TS.
Nguyễn Thị Hậu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét