http://www.thanhnien.com.vn/pages/20120408/khong-gian-thieng.aspx
. Đi một vòng quanh Côn Đảo ta luôn
nhìn thấy dấu tích của hệ thống nhà tù dày đặc ở đây: những ngôi nhà trơ bức tường
dày, những hàng rào thép gai, những trạm gác – lô cốt. Còn được bảo tồn khá
nguyên vẹn có thể kể đến các di tích: Nghĩa trang Hàng Dương, cầu tàu 914, Chuồng
cọp Pháp, Chuồng cọp Mỹ, Hầm phân bò và nhiều trại tù khác… Khách tham quan được
hướng dẫn chu đáo, nội dung thuyết minh khá chi tiết về những di tích này. Đặc
biệt Nghĩa trang Hàng Dương bạt ngàn bia mộ không ngay hàng thẳng lối vì được dựng
ngay nơi người tù bị vùi xác. Nghĩa
trang nay được xây dựng khang trang, có đền Tưởng niệm, đài Liệt sĩ, mỗi ngôi mộ
ban đêm sáng một ngọn đèn nhỏ xíu như ngàn vạn đom đóm lập lòe trong tiếng gió
tiếng sóng rì rào…
Côn Đảo còn có nhiều di tích khác
như An Sơn Miếu – nơi thờ bà Phi Yến là thứ phi của Nguyễn Ánh, Cầu Ma thiên
Lãnh, Nhà Chúa đảo, Nhà Công quán, Chùa Núi Một… phản ánh khá đầy đủ lịch sử
nơi đây.
Không chỉ có hệ thống di tích lịch
sử mà cảnh quan và hệ sinh thái tự nhiên của Côn Đảo xứng đáng được coi là di sản
tự nhiên, vốn quý để nơi đây trở thành “thiên đường” của du lịch và nghỉ dưỡng.
Nhiệt độ ôn hòa, bờ biển dài bằng phẳng mịn màng cát trắng, trong lòng biển là
những rặng san hô nhiều màu sắc, trên đảo nào cũng có những khu rừng nguyên
sinh… Hệ sinh thái này là môi trường thuận lợi cho bảo tồn và sự phát triển của sinh vật biển như các loại ốc, hàu, vích, cá…
làm nên những món ăn độc đáo. Thị trấn Côn Sơn như một viên ngọc bích nổi trên
biển trời xanh biếc. Những con đường nho nhỏ xanh rợp lá, những cây bàng cổ thụ
gốc sần sùi lớn tới hai người ôm, những bụi bông giấy thắm màu đỏ tía hồng cam
mọc trên sườn núi trên hàng rào nhà tù trên bãi cát ven hàng dương, những hàng
rào bông hòang anh vàng tươi rực rỡ trước khách sạn nhà nghỉ, và phượng đỏ
trong nghĩa trang Hàng Dương mang lại chút ấm áp cho những người nằm lại nơi
đó…
Trừ khu vực các trại tù đã được bảo tồn thành di
tích, tham quan những nơi khác ở Côn Đảo người ta không cảm thấy không khí ghê
rợn của “địa ngục trần gian” quanh quất đâu đấy như những di tích trại tập
trung ở Ba Lan hay ở Đức. Đó là nhờ sự hiện diện, tuy ít ỏi, của dân cư trên đảo.
Họ đã góp phần bảo tồn quá khứ anh hùng và hiện nay cuộc sống hiền hòa của họ đang
hàng ngày mang lại sức sống mới cho hòn đảo xinh đẹp này.
Từ khỏang đầu thế kỷ XIX sách Gia
Định thành thông chí của Trịnh Hòai Đức đã ghi chép về Côn Đảo như sau:
Ở giữa biển
Đông, từ cửa cảng Cần Giờ chạy thuyền ra biển theo hướng đông mặt
trời mọc 2 ngày
mới đến. Đảo lớn 100 dặm, có ruộng núi trồng lúa, bắp, khoai, đậu,
nhưng cũng không
nhiều, nên thường phải mua gạo ở Gia Định mới đủ dùng. Thổ sản ở
đây là ngựa và
trâu, núi không có cọp beo. Dân ở đảo tự kết lại làm binh sĩ, gọi Tiệp
Nhất, Tiệp Nhị,
Tiệp Tam ba đội, trực thuộc đạo Cần Giờ, có đủ khí giới để giữ gìn đất
ấy phòng quân cướp
hung dữ Đồ Bà, không cần kêu gọi chỗ khác đến giúp. Dân
lính ở đấy thường
lấy yến sào, đồi mồi, vích, quế hương, mắm, ốc tai tượng, rồi theo
mùa mà dâng nộp;
còn lại thì đánh bắt hải sản như cá, tôm để sinh sống. Quả cau ở
đây to, vỏ màu hồng,
vị lại ngọt thơm, cứ đến đầu mùa xuân, lúc cau ở Gia Định chưa
kết quả, thì cau
ở đây đã dùng được, người ta chở vào bán với giá rất cao.
Như vậy có thể coi Côn Đảo là “tiền cảng” của cảng Bến
Nghé – Gia Định. Mối quan hệ chặt chẽ về kinh tế (và quân sự) giữa Côn Đảo và
(thành) Gia Định đã mang lại sự phát triển ổn định cho hòn đảo này.
Đừng để Côn Đảo “ngủ quên” trong quá khứ đau buồn, bởi vì
Côn Đảo xứng đáng được đánh thức để trở
thành một thiên đường trong tương lai. Những ghi chép của tiền nhân có thể coi
là một gợi ý, một hướng nghiên cứu để tìm ra nguồn lực phù hợp nhất cho sự phát
triển của Côn Đảo hôm nay và ngày mai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét