GỐM QUẢNG ĐỨC – MỘT DÒNG GỐM ĐỘC ĐÁO VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA


Bảo tàng lịch sử - văn hóa trường Đại học khoa học xã hội nhân văn TP.HCM có một số hiện vật gốm Quảng Đức được sưu tập từ nhiều nguồn. Nổi bật trong số đó là 04 chóe gốm do ông Võ Văn Hưng (Thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai cũ) trao tặng năm 2023. Các chóe còn nguyên vẹn (1 chiếc miệng vỡ một chút), có màu men nâu còn in nhiều dấu vết vỏ sò, miệng loe có vành miệng, cổ đứng, vai hơi phình và thân thon dần vào đáy. Trên vai chóe có 4 tai nhỏ. Kích thước khá đồng nhất: Cao từ 50,3 cm đến 53,7 cm, đường kính miệng từ 16,0 cm đến 18,4 cm, đường kính đáy từ 14,7 cm đến 17,0 cm. Đây là loại hình tiêu biểu của Gốm Quảng Đức. Nhân có sưu tập này chúng tôi đã có đợt khảo sát vào tháng 5/2025 tại thôn Quảng Đức, xã An Thạch huyện Tuy An (tỉnh Phú Yên cũ).

Gốm Quảng Đức (Phú Yên) là một dòng gốm độc đáo bởi nguyên liệu, kỹ thuật nung và hình thức sản phẩm khi hoàn chỉnh. Gốm Quảng Đức phổ biến nhất là loại hình chóe và bình vôi, ngoài ra còn nhiều sản phẩm đất nung dân dụng khác. Có thể nhận ra Gốm Quảng Đức ở màu men nâu sắt (chóe) hoặc hỏa biến xanh lam, đỏ huyết (bình vôi), đặc biệt những dấu in của vỏ sò bị nung cháy ngay trên bề mặt sản phẩm. Một số công trình nghiên cứu bước đầu về Gốm Quảng Đức đã nhìn nhận, vỏ sò có vai trò rất đặc biệt trong quá trình nung gốm Quảng Đức và trở thành đặc trưng kỹ thuật của dòng gốm này, bởi vì vỏ sò có vai trò là vật liệu truyền thống, trong quy trình nung gốm, và tạo nên đặc trưng mỹ thuật sản phẩm.

Khảo sát và nghiên cứu nhiều sưu tập gốm Quảng Đức với hàng trăm sản phẩm chủ yếu là chóe và bình vôi nhiều kích thước, qua trao đổi về kỹ thuật sản xuất với một số nghệ nhân làm gốm và nhà sưu tập, chúng tôi nhận biết đặc trưng cơ bản của Gốm Quảng Đức bắt đầu từ một loại nguyên liệu độc đáo tham gia vào quá trình sản xuất, đó là vỏ sò (mà người địa phương cho rằng đó là loại sò huyết đánh bắt từ đầm Ô Loan – một đặc sản địa phương).

Vỏ sò biển được sử dụng trong quá trình nung như một loại chất đệm – kỹ thuật hiếm thấy ở các dòng gốm khác. Trong quá trình xếp sản phẩm vào lò nung, người thợ lót vỏ sò giữa các sản phẩm để tránh chúng dính vào nhau khi nhiệt độ cao làm men chảy. Vỏ sò có khả năng chịu nhiệt tốt, tạo lớp đệm cách nhiệt tự nhiên, giúp phân bố đều nhiệt lượng trong lò. Khi nung, vỏ sò tạo nên hiệu ứng men tự nhiên, loang khói và hằn dấu lên bề mặt sản phẩm – trở thành một “dấu ấn nhận diện” riêng của gốm Quảng Đức.

Gốm Quảng Đức được tạo bề mặt thẩm mỹ độc đáo: từ đất, lửa, vỏ sò. Khi nung, tro vỏ sò (chứa canxi cacbonat - CaCO₃) phản ứng với thành phần men gốm, tạo nên vệt loang, chảy men tự nhiên hoặc để lại dấu hằn của vỏ sò trên bề mặt. Gốm không tráng men công nghiệp mà tận dụng hiệu ứng nhiệt – khói – tro của quá trình nung tạo ra lớp men mộc mạc có “hoa văn” là dấu tích vỏ sò, tạo nên mỗi sản phẩm đều là “độc bản”. Đây là đặc điểm “thủ pháp mỹ thuật ngẫu hứng” của gốm Quảng Đức, tạo nên vẻ mộc mạc, cổ xưa và không cái nào giống cái nào. Giá trị của mỗi sản phẩm trở nên độc đáo hơn, giá trị cả dòng gốm cao hơn do tính khác biệt với các dòng gốm khác.

Chính yếu tố kỹ thuật này đã làm cho gốm Quảng Đức mang giá trị bản địa và tri thức dân gian: Người thợ Quảng Đức dùng nguồn vỏ sò từ biển đầm Ô Loan, một nguyên liệu tự nhiên sẵn có trong vùng. Việc sử dụng vỏ sò thể hiện tri thức thủ công dân gian, tận dụng tài nguyên địa phương, có sự giao thoa giữa yếu tố “biển” và “đất”, thể hiện “văn hoá biển” trong một đời sống của cư dân vùng ven biển. Gốm Quảng Đức mang giá trị xã hội – cộng đồng vì đây là nghề truyền thống gắn với sinh kế của cư dân địa phương. Nếu được phục hồi và phát triển sẽ là nguồn tài nguyên dồi dào cho du lịch, giáo dục văn hóa và nghiên cứu khoa học.

Tuy nhiên, từ góc độ kỹ thuật có một số vấn đề đặt ra nhưng chưa được giải đáp thỏa đáng. Đó là: Vỏ sò có vai trò là những “con kê”/”bao nung” tự nhiên chống dính giữa các sản phẩm trong quá trình nung ở nhiệt độ cao. Vậy tỷ lệ thế nào là “vừa đủ” để tạo “hỏa biến” và còn lại dấu tích trên bề mặt đồ gốm? Liệu số lượng vỏ sò có thể nhiều hơn và trở thành vôi - một “sản phẩm phụ” của quá trình nung gốm? Và có phải từ sự “ngẫu nhiên” mà tạo nên những màu men “hoả biến”? Lúc đầu, các sản phẩm còn dính nhiều vỏ sò có phải là “thứ phẩm” nhưng rồi do độc bản mà trở thành độc đáo, rồi được ghi nhận cách tạo ra sản phẩm mới để trở thành chính phẩm?

Những vấn đề này cần được làm rõ để có thể đánh giá giá trị gốm Quảng Đức toàn diện hơn, đặc biệt là để quy trình kỹ thuật sản xuất gốm Quảng Đức được “chính thức hóa” cùng những kiến giải khoa học. Từ đó nghiên cứu phục dựng quá trình sản xuất gốm Quảng Đức, “truyền nghề” một cách bài bản. Có vậy mới duy trì và phát triển làng nghề như một di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của địa phương.

Có thể nói hiện nay gốm Quảng Đức đang “biến mất” vì tại địa phương không còn nghề sản xuất gốm. Gần như không còn thế hệ nghệ nhân nào thực hành trọn vẹn kỹ thuật truyền thống, thiếu lớp kế thừa; chính quyền chưa có chính sách cụ thể hỗ trợ gìn giữ nghề, sự cạnh tranh với đồ gốm công nghiệp, các loại hình truyền thống như bình, chậu... được làm bằng chất liệu khác, thị trường tiêu thụ thu hẹp... Quan trọng nhất là tình trạng mất mát tri thức dân gian, nghề truyền thống nếu không có can thiệp bảo tồn khẩn cấp.

Cũng trong đợt khảo sát này, chúng tôi nhận thấy các lò gốm sản xuất theo kỹ thuật truyền thống không còn nữa, các hộ làm gốm đã thay đổi việc sản xuất gốm bằng sản xuất chậu đúc bằng xi măng. Tuy nhiên tại khu vực “làng gốm” vẫn còn nhận ra dấu tích của một số lò gốm thủ công. Đó là những gò đất tự nhiên cao hơn mặt bằng chung khoảng 1,5 – 2m, thấp dần về phía bờ sông. Dấu tích mảnh gốm, mảnh sành, những phế phẩm dày đặc khắp gò đất, thậm chí vẫn còn vài hàng gạch là dấu tích vách lò nung.

Chúng tôi đã đề nghị Bảo tàng Phú Yên tổ chức khai quật di tích các lò gốm cổ này, đồng thời cần đề xuất Đề án nghiên cứu phục hồi kỹ thuật sản xuất gốm Quảng Đức và bảo tồn di sản làng nghề gốm Quảng Đức, với mục tiêu cơ bản là:

- Khảo cứu, hệ thống hóa các kỹ thuật sản xuất gốm truyền thống Quảng Đức (tạo hình, phối liệu, nung, hoa văn, men màu…).

- Phục dựng các quy trình kỹ thuật truyền thống đã thất truyền hoặc đang mai một.

- Đề xuất mô hình bảo tồn làng nghề gắn với đào tạo truyền nghề và phát triển kinh tế văn hóa địa phương.

- Xây dựng cơ sở dữ liệu và tư liệu hóa các tri thức nghề truyền thống.

Với những giá trị độc đáo, gốm Quảng Đức xứng đáng là “di sản văn hóa” của tỉnh Phú Yên và trong hợp lưu các dòng gốm Việt Nam nói chung.

Nguyễn Thị Hậu, Trường Đại học KHXHNV. TPHCM









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

GỐM QUẢNG ĐỨC – MỘT DÒNG GỐM ĐỘC ĐÁO VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Bảo tàng lịch sử - văn hóa trường Đại học khoa học xã hội nhân văn TP.HCM có một số hiện vật gốm Quảng Đức được sưu tập từ nhiều nguồn. Nổ...