Đặt vấn đề
Khu di tích óc Eo
– Ba Thê (huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang) thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long
(miền Tây Nam Bộ của Việt Nam). Đây cũng là vùng đất thuộc lãnh thổ của vương
quốc cổ Phù Nam và có thể coi là trung tâm của nền văn hóa Óc Eo. Các kết quả nghiên cứu khảo cổ học từ 1944 đến nay,
đặc biệt giai đoạn 2017 – 2020, đã chứng minh trong thời kỳ tồn tại của vương
quốc cổ Phù Nam (từ đầu Công Nguyên đến thế kỷ VI – VII). Khu vực trung tâm Óc
Eo – Ba Thê là một trong những cảng thị quan trọng và là một trung tâm tôn giáo
lớn, thể hiện bằng hàng chục di tích kiến trúc và khối lượng lớn các loại hình di
vật nhiều chất liệu. Đây là cơ sở khoa học quan trọng để tiến hành xây dựng hồ
sơ đề cử Di sản thế giới cho Khu di tích khảo cổ Óc Eo – Ba Thê (tỉnh An Giang,
Việt Nam).
Từ góc nhìn khảo cổ học cộng đồng, bài viết tham góp
về những giá trị của khu di tích Óc Eo – Ba Thê cũng như đề xuất một số giải
pháp gắn với vai trò cộng đồng, góp phần cho hồ sơ đề cử được đầy đủ, toàn
diện.
2. Giá trị di
sản Óc Eo - Ba Thê từ góc nhìn khảo cổ học cộng đồng
Từ góc nhìn của khảo cổ học cộng đồng, di sản Óc Eo – Ba Thê không chỉ là
một di tích khảo cổ học quốc gia đặc biệt, mà còn mang nhiều giá trị sâu sắc
đối với lịch sử vùng đất Nam bộ, cộng đồng địa phương
và sự phát triển bền vững của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Dưới đây là phân
tích các giá trị của di sản Óc Eo – Ba Thê từ góc nhìn khảo cổ học cộng đồng:
2.1 Giá trị nhận diện bản sắc văn hóa vùng miền
Khu di tích Óc Eo – Ba
Thê (An Giang) là minh chứng quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của một nền văn
minh cổ của vương quốc Phù Nam tại vùng đất Nam Bộ từ thế kỷ I đến VII SCN. Từ cuộc khai quật năm 1944 của nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret tại cánh
đồng Óc Eo (huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang) đến nay, bằng chứng khảo cổ học đã
cho biết đô thị cổ Óc Eo - Ba Thê là một tổng thể của các chức năng: trung tâm
đô thị và dân cư gắn liền với hoạt động thương mại qua hệ thống thương cảng ven
biển; trung tâm tôn giáo lớn trong sự dung hợp văn hóa Phật giáo và Hindu giáo
mang đậm ảnh hưởng từ nền văn minh Ấn Độ[1]. Sau
khi vương quốc Phù Nam sụp đổ, nền văn hóa này cùng cộng đồng dân cư
vẫn để lại dấu tích đến vài thế kỷ sau
Ở vùng đất Nam bộ, trước thời kỳ vương quốc Phù Nam,
từ thời tiền sơ sử (niên đại khoảng 2500 – 2000 năm cách ngày nay) đã hiện diện
“cảng thị sơ khai” Cần Giờ ở ven biển Đông Nam bộ. Đặc trưng của cảng thị Cần
Giờ là kinh tế giao thương mạnh mẽ với Đông Nam Á và Ấn Độ. Ngay sau đó đô thị
- cảng thị Óc Eo hình thành và phát triển ở miền Tây Nam bộ. Sự ra đời của
những cảng thị cổ tại vùng đất Nam bộ phản ánh đặc trưng kinh tế nổi bật: phát
triển giao thương rộng rãi bằng đường biển và đường sông; đặc trưng văn hóa nổi
bật: văn hóa sông nước cởi mở, phóng khoáng, linh hoạt. Cho đến nay, vùng đất
Nam bộ vẫn duy trì và phát triển nhiều yếu tố kinh tế - văn hóa sông nước[2].
Khảo cổ học góp phần giải thích nhiều yếu tố lịch sử - văn hóa, kể lại quá khứ và giúp cộng đồng hiểu rằng quá khứ
của họ không bị "đóng băng trong viện bảo tàng" bằng những hiện vật, mà hiện diện trong
chính cảnh quan, lối sống, tập quán... mà cộng đồng
đang duy trì, góp phần hình thành bản sắc văn hóa địa phương.
2.2 Giá trị giáo dục và
truyền cảm hứng cho cộng đồng:
Từ sau năm 1975,
trong các cuộc khai quật khảo cổ học tại khu vực, cộng đồng địa phương đều có
cơ hội tham gia khai quật. Thông qua đó, người dân được cung cấp hiểu biết về di tích
khảo cổ, nâng cao nhận
thức về lịch sử quê hương. Các chương trình tham quan trưng bày di
sản tại Nhà trưng bày Văn hóa Óc Eo,
Bảo tàng tỉnh An Giang, việc bảo tồn nhiều di tích Óc Eo tại chỗ (site museum)... Cư dân địa phương – đặc biệt là thanh thiếu niên – có cơ hội tiếp cận với
khảo cổ học một cách sinh động. Từ đó lịch
sử địa phương – qua đó là lịch sử vùng đất Nam bộ - được truyền đạt cụ thể, dễ
hiểu, khơi gợi lòng yêu quê hương, trách nhiệm bảo vệ di sản, góp phần nâng cao dân trí và khả năng tham gia vào các chính
sách văn hóa địa phương để “phát triển
bền vững”.
2.3 Giá trị phát triển kinh tế – du lịch bền vững
Trong bối cảnh rộng của tỉnh An Giang, ở các khu vực
Tri Tôn, Tịnh Biên và Châu Đốc có nhiều tuyến điểm du lịch đã trở nên nổi
tiếng, đa dạng về loại hình dịch vụ, góp phần cùng với Khu di tích Óc Eo - Ba
Thê phát triển hoạt động du lịch. Với quan điểm du lịch như một nguồn lực để
phát triển kinh tế địa phương, việc đầu tư để phát triển du lịch văn hóa đang
được khuyến khích trong trường hợp Khu di tích Óc Eo - Ba Thê nói riêng, tỉnh
An Giang nói chung. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh An
Giang cũng như chiến lược nâng tầm khu di tích khảo cổ học Óc Eo - Ba Thê trở
thành Di sản Văn hóa Thế giới thì việc quảng bá và thu hút nguồn khách du lịch
trong nước và quốc tế là việc làm rất cần thiết ngay trong giai đoạn chuẩn bị
hiện nay.
Di sản khảo cổ Óc Eo – Ba Thê có tiềm năng trở thành
trục du lịch văn hóa – khảo cổ học – sinh thái, kết hợp với cảnh quan tự nhiên
núi Ba Thê, hệ thống sông ngòi cổ, cánh đồng lúa, khu cư trú của cộng đồng hiện
tại... Việc ứng dụng mô hình khảo cổ học cộng đồng, ví dụ như "du lịch
khảo cổ cùng cư dân địa phương", hay "cùng cộng đồng khám phá đô thị
cổ Óc Eo”... sẽ góp phần mang lại nhiều lợi ích: Tạo sinh kế mới (dịch vụ du
lịch) cho cộng đồng; Cộng đồng hiểu rõ giá trị di sản đối với đời sống sẽ tránh
việc khai thác quá mức và “thương mại hóa” di sản; Từ sự hiểu biết văn hóa cổ
và để đáp ứng nhu cầu của dịch vụ du lịch, cộng đồng sẽ bảo tồn cảnh quan tự
nhiên, tái hiện những yếu tố văn hóa truyền thống như ẩm thực, lễ hội... giúp
khách du lịch có trải nghiệm sâu sắc.
2.4 Giá trị trong quản lý di sản có sự tham gia của cộng đồng
Di sản khảo cổ thường bị xem là "vô hình" trong mắt cư dân vì
nằm dưới lòng đất hoặc khó tiếp cận. Nhưng khi cộng đồng được tham gia khảo
sát, khai quật, bảo tồn, họ sẽ cảm thấy đây là tài sản chung của mình. Cách tiếp cận của khảo cổ học cộng
đồng thúc đẩy “dân chủ hóa tri
thức”, sự chia sẻ quyền quản lý di sản giữa chính quyền, nhà khoa học và người
dân, từ đó nâng cao hiệu quả bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, hạn chế sự can thiệp làm tổn hại hoặc
phá hủy di tích nhân danh “phát triển” bằng các công trình hiện đại.
Đây là sự kết hợp hai phương thức “bảo tồn từ dưới lên -
bottom up” và “bảo tồn từ trên xuống – top down” để di sản văn hóa thực sự “sống cùng” cộng đồng và vì
cộng đồng, góp phần phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội lâu dài, ổn định và bền vững
cho khu địa phương nói riêng, cho khu vực Nam bộ nói chung.
2.5 Giá trị kết nối liên
vùng và liên văn hóa
Di sản Óc Eo không phải là một điểm riêng lẻ mà thuộc về một mạng lưới di
tích rộng lớn ở miền Tây Nam Bộ, cho thấy sự liên kết văn hóa – thương mại cổ
xưa trong toàn vùng Nam bộ với các khu vực như Ấn Độ, Đông Nam Á, Trung Hoa[3]. Qua khảo cổ học cộng đồng, cư dân có
thể hiểu được vị thế và vai trò của quê hương mình trong lịch sử giao lưu quốc tế cổ đại, từ đó phát huy giá trị lịch sử - văn hóa của địa phương trong tiến trình phát triển hiện đại.
Như vậy, từ góc nhìn khảo cổ học cộng đồng, di sản Óc Eo – Ba Thê không chỉ có giá
trị khoa học đơn thuần mà còn là một nguồn lực văn hóa sống động để phát triển
bản sắc, giáo dục, sinh kế và năng lực cộng đồng. Việc tiếp cận theo hướng cộng
đồng không chỉ làm "sống lại" di sản mà còn trao quyền cho cộng đồng
để họ trở thành chủ thể trong bảo tồn và phát triển di sản ấy. Khảo cổ học cộng đồng có ý nghĩa to lớn trong việc làm nổi bật tính xác
thực và toàn vẹn của di tích Óc Eo – Ba Thê. Thông qua sự tham gia của cộng
đồng địa phương trong các hoạt động khảo cứu, truyền thông, giáo dục di sản và
bảo vệ hiện vật, giá trị văn hóa – lịch sử của di tích không chỉ được bảo tồn
về mặt vật thể mà còn được tiếp nối dưới dạng sống động trong đời sống xã hội
đương đại.
[1] Louis Malleret, 2021. Khảo cổ học đồng bằng
sông Mekong, tập 2: Văn minh vật chất óc Eo. Nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí
Minh
[2] Nguyễn Thị Hậu, 2024. Văn hóa Nam bộ nhìn
từ các nền văn hóa khảo cổ. Tạp chí Khảo cổ học số 5.2024 (251). Tr. 81 - 91
[3] Bùi Minh Trí, Nguyễn Gia Đối, Nguyễn Khánh
Trung Kiên (đồng chủ biên), 2022. Văn hóa Óc Eo những phát hiện mới khảo cổ học
tại di tích Óc Eo, Ba Thê và Nền Chùa 2-17 – 2020. Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
Hình: Cánh đồng Óc Eo (An Giang)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét