https://nguoidothi.net.vn/tp-hcm-dinh-menh-ben-mot-dong-song-50827.html
Nguyễn Thị Hậu
TP. Hồ Chí Minh hiện nay (gồm TP.HCM, tỉnh Bình Dương và tỉnh Bà Rịa
– Vũng Tàu cũ) luôn là khu vực giữ vai trò trung tâm kinh tế phía
Nam. Để tiếp tực giữ vững và phát huy vai trò “đầu tàu
kinh tế” của cả nước, thành phố đang đứng trước nhu cầu cấp bách định hình một mô hình không gian phát triển mới. Trong bối cảnh đó, tái cấu trúc và định hình TP. Hồ Chí Minh theo hướng “vùng đô thị sông nước” (River-based Urban Region) là nhu cầu mang tính thực tiễn cao. “Tính chất sông nước” ở đây không chỉ là nguồn lực tự nhiên về nguồn nước, sinh thái và giao thông, mà còn là đặc trưng văn hóa – lịch sử từ thời kỳ khởi lập đến nay.
TP. Hồ Chí Minh nhìn từ cấu trúc
sông nước
TP. Hồ Chí Minh hiện nay là một vùng rộng lớn trung tâm miền Đông
Nam Bộ. Ba hệ thống sông
chính tạo nên xương sống sinh thái – văn hóa - kinh tế – giao thông của vùng là Sông Sài Gòn - có vai trò lịch sử đặc biệt trong quá trình hình thành vùng đất Gia Định và đô thị Sài Gòn. Sông Đồng Nai - kết nối các tỉnh Tây Nguyên với
vùng hạ lưu Đồng Nai, Bình Dương và TP. HCM. Và Sông Thị Vải – Sông
Lòng Tàu – Soài Rạp - tạo thành hành lang chiến lược kết nối từ TP. HCM ra biển qua Cần Giờ – Bà Rịa –
Vũng Tàu. Các con sông lớn
trên địa bàn thành phố đều đổ ra biển Đông, vì vậy “mặt tiền” của vùng Đông Nam
bộ hiện nay thuộc về TP Hồ Chí Minh. Ngoài khơi, từ xa xưa Côn Đảo luôn thuộc
sự quản lý của thành Gia Định, có thể coi Côn Đảo là “tiền cảng” của cảng Bến
Nghé – Gia Định.
Cấu trúc sông nước
không chỉ quy định điều kiện tự nhiên mà còn ảnh hưởng đến tổ chức không gian
đô thị, phân bố dân cư, hệ thống bến cảng và vùng đệm sinh thái. Từ vị trí địa lý “trời cho” nhưng được “người chọn” đã tạo nên TP. Hồ Chí Minh (trước kia và hiện nay) là một thành phố sông nước, hướng biển và kết nối.
Bắt đầu từ thời tiền sử vùng hạ lưu sông Đồng Nai,
sông Sài Gòn là trung tâm nền văn hóa cổ “văn hóa Đồng Nai”. Từ cuối thế kỷ 17
và trong suốt thế kỷ 18, lưu vực hai con sông Sài Gòn, Đồng Nai tiếp nhận những
đoàn lưu dân người Việt, người Hoa vào khai phá. Bản thân sự “khai sinh” vùng Gia Định
đã là quá trình tập hợp những cộng đồng từ nhiều nguồn gốc, nhiều vùng miền
trong và ngoài nước, hòa nhập với các tộc người đã tụ cư lâu đời ở vùng đất
này.
Các con sông
của thành phố gắn với quá trình định cư và phát triển của người Việt, Hoa và
nhiều cộng đồng khác ở miền Đông Nam Bộ. Cùng với quá trình khẩn hoang lập ấp,
phát triển sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp… lưu dân vào
vùng đất Gia Định đã mang theo những phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo,
lối sống nếp sống... của quê hương bản quán làm chỗ dựa tinh thần ở vùng đất
mới. Trên địa bàn thành phố tồn tại một hệ thống di sản văn hóa đô thị sông
nước.
Nhiều ngôi đình, chùa, miếu thường quay mặt hướng ra sông, rạch, các địa
danh “Miếu Nổi” có từ một miếu nhỏ dựng trên các cù lao giữa sông... Điều này
cho biết các làng xóm xưa “quy hoạch” ven sông, kinh rạch, lấy sông là “xương
sống”, kinh rạch lớn nhỏ là hệ thống “mạch máu” tạo nên sinh khí một vùng đất. Nhiều đình làng trước đây tổ chức Lễ hội rước sắc
thần bằng ghe - nét đặc sắc của cư dân ven sông ở Nam bộ. Vùng biển Cần Giờ,
Vũng Tàu, Bà Rịa có Lễ Nghinh Ông và tục Thờ Cá Ông.
Nghề gốm truyền thống ở xóm Lò Gốm Sài Gòn xưa còn địa danh Kinh Lò Gốm,
rạch Lò Gốm (quận 6, quận 8), khu Lò Lu phường Long Trường cũ (TP Thủ Đức) liền
kề sông Trao Trảo – Rạch Chiếc. Làng gốm Lái Thiêu ven sông Sài Gòn... phát
triển nhờ thuận lợi đường thủy.
Nhiều ngôi chợ xưa hình thành ngay tại bến sông/rạch
lớn như chợ Bến Thành xưa, chợ Cầu Muối, chợ Cầu Ông Lãnh, Chợ Lớn gần Kinh Tàu
Hũ, chợ Tân Định, chợ Lê Văn Sĩ gần kinh Nhiêu Lộc, chợ Thị Nghè, hay chợ Thủ
Dầu Một kế sông Sài Gòn... Cũng là cảnh quan “trên bến dưới thuyền” của Nam bộ
nhưng ở các đô thị lớn như Sài Gòn (và Đông Nam bộ) thì “trên bến” có vai trò chủ đạo, vì tại đó hình
thành những chợ đầu mối, rồi các cơ sở dịch vụ, công nghiệp, sau này là các bến
cảng lớn xuất nhập nông sản, hàng hóa. Trước đây còn nhiều khu cư trú ven kinh rạch, là nhà sàn hoặc một
phần nhà sàn. Tuy nhiên do không có điều kiện đảm bảo vệ sinh môi trường, nên
nhiều khu vực đã được giải tỏa và ngày càng có xu hướng xóa bỏ lối cư trú này
trong đô thị.
Vị thế Địa – Văn hóa mang lại cho TP. Hồ Chí Minh hiện
nay một lợi thế quan trọng trong quá trình sáp nhập: đó là một truyền thống lịch
sử chung, bản sắc văn hóa đa dạng thể hiện qua hệ thống di sản phong phú của một
vùng văn hóa sông nước – hướng biển độc đáo.
Các vấn đề đặt ra
Như vậy có thể thấy rằng, TP. Hồ Chí Minh – đô thị
lớn nhất Việt Nam hiện nay – được định hình và phát triển dựa trên đặc điểm Tự
nhiên – Văn hóa sông nước. Tuy nhiên, quá trình hiện đại hóa từ giữa thế kỷ 20 đã
“bỏ quên” yếu tố sông nước trong quy hoạch phát triển giao thông và hình thái cư trú của
cộng đồng. Gần đây TP. Hồ Chí Minh đã quan tâm đến yếu tố sông rạch trong cấu
trúc đô thị, bắt đầu từ mạng lưới giao thông đường thủy và tiềm năng phát
triển du lịch đường sông vì tính kết nối cao của sông rạch. Hệ thống thủy lộ
chính là tuyến du lịch xuyên không gian văn hóa – thời gian lịch sử của thành
phố và Nam bộ.
Quá trình đô thị hóa mạnh mẽ gây ra tình trạng đứt gãy các hành lang, giao thông sông nước do bê tông hóa, san lấp kinh rạch. Số lượng và mật độ dân cư, cơ sở sản xuất dày đặc
gây ô nhiễm trầm trọng, suy giảm chất lượng sinh thái vùng ven kinh rạch, ven sông, ven biển.
Khi còn là những đơn vị hành chánh khác nhau thì thiếu phối hợp liên vùng trong quản lý quy hoạch, đặc biệt là quy hoạch
theo lưu vực sông. Thành phố và vùng ven mất dần bản sắc văn hóa sông nước, nhất là lối cư trú ven và trên sông rạch. Đặc biệt, khi các đô thị phát triển
nhờ hệ thống đường bộ thì cũng nhanh chóng “mất gốc” vì xa rời, cắt khỏi môi
trường cảnh quan sông nước tự nhiên vốn có – yếu tố khởi đầu và phát triển đô thị.
Tất cả điều đó làm mất đi không chỉ cảnh quan sông
nước mà còn cắt đứt ký ức đô thị sông nước trong cộng đồng: đường thủy không
còn vai trò, chợ ven sông biến mất, hệ thống văn hóa tín ngưỡng ven sông mờ
nhạt, hình thái cư trú nhà sàn truyền thống bị phá bỏ... Tất cả là một hệ thống “di sản” sẽ biến
thành “tài nguyên du lịch” nếu biết bảo tồn và phát triển đúng hướng, đúng
cách. Đô thị trở nên lệ thuộc hạ tầng
đường bộ, dễ bị ngập úng, mất bản sắc. Đặc biệt góp phần tác động tiêu cực vào “biến đổi khí
hậu” khi mà diện tích mặt nước giảm, đi cùng với diện tích mảng xanh ven bờ
cũng giảm, tăng thêm nhiều diện tích bê tông hóa và hiệu ứng nhà kính tại những
khu chung cư cao tầng ven sông đang được xây dựng ngày càng nhiều.
Bảo tồn bản sắc văn
hóa
TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện một phần tích hợp này
bằng một số chương trình tái thiết không gian sông nước trong chiến lược phát
triển đô thị hiện đại. Vài năm gần đây thành phố đã thực hiện dự án “hồi sinh
bến Bạch Đằng” nhắc nhớ ký ức một thời “dừng chân trên bến khi chiều nắng chưa
phai” quen thuộc của người Sài Gòn. Mở ra hướng phát triển “TP.HCM – thành phố
bên sông” bằng các dự án giao thông dọc sông Sài Gòn.
Dự án cải tạo bán đảo Thanh Đa theo định hướng bảo
toàn cảnh quan tự nhiên gồm các giải pháp quy hoạch tổng thể, hài hòa giữa phát
triển đô thị hiện đại và bảo tồn thiên nhiên, trong đó chú trọng đến hệ thống
thủy lợi tự nhiên, khả năng thoát nước, không gian công cộng và hệ sinh thái
bền vững.
Các chương trình cải tạo kênh rạch (Tàu Hũ – Nhiêu
Lộc – Thị Nghè), di dời dân cư, mở lối đi ven kênh, trồng cây xanh, nạo vét
kênh rạch... Mở ra không gian cộng cộng mới, hình thành ký ức đô thị mới. Tất
cả những dự án đã và sắp triển khai luôn cần đặc biệt chú ý ba yếu tố quan
trọng, quyết định hiệu quả lâu dài của dự án và chất lượng đời sống cộng đồng. Đó
là tái định cư, bảo toàn di sản văn hóa sông nước và thích ứng biến đổi khí hậu.
Đây cũng là ba yếu tố đảm bảo cho thành phố phát triển bền vững.
Định hướng quy hoạch các “hành lang đô thị ven sông”
(urban river corridors) kết hợp giao thông – công viên – di sản – dịch vụ công
cộng. Phát triển “hành lang” này
đầu tiên là thiết lập hệ thống công viên ven sông, bảo tồn hành lang sinh thái. Tăng cường giao thông công cộng đường thủy. Trên cơ sở đó khôi phục bản sắc văn
hóa đô thị sông nước như bến và chợ ven sông, làng nghề bên sông, lễ hội truyền thống, bảo tồn và trùng tu, phục dựng những di tích tín
ngưỡng dân gian, tạo thành tuyến điểm du lịch. Phát triển công nghiệp văn hóa từ tài
nguyên di sản, như chương trình biểu diễn thực cảnh “Lễ Hội sông nước” đã tổ chức ở TP. Hồ Chí Minh.
TP. Hồ Chí Minh có vị thế địa – văn hóa, địa – kinh tế gắn
liền với các dòng sông. Không chỉ vậy, hiện nay TP. Hồ Chí Minh còn giữ toàn bộ
“mặt tiền” hướng biển của cả miền Đông Nam bộ. Đây là một lợi thế to lớn của
thành phố.
Sông
nước không chỉ là yếu tố tự nhiên, mà còn là nền tảng lịch sử - văn hóa – ký ức – bản sắc
của TP. Hồ Chí Minh. Vì vậy cần phục hồi và tái cấu trúc các trục
sông như hệ trục không gian chiến lược, gắn quy hoạch – di sản – cộng đồng, làm nền tảng cho phát triển đô thị hiện đại - bền vững – bản sắc.
TP. Hồ Chí Minh, ngày
2.10.2025