
Trong câu chuyện về các vùng đất và con người trên dải đất hình chữ S, Sài Gòn – TP.HCM là một trường hợp đặc biệt: một thành phố trẻ về niên đại, nhưng lại dày dặn trầm tích; một đô thị mang vẻ ồn ào, gấp gáp, nhưng phía sau là những dịu dàng, rất lành và rất riêng trong tính cách trong người dân.
Để chạm vào “cái chất” ấy, Dân Việt trò chuyện cùng Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu, Phó Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Tổng Thư ký Hội Sử học TP.HCM, người sống ở Sài Gòn từ sau năm 1975 đến nay. Không chỉ là nhà sử học, nhà khảo cổ gắn bó trọn đời nghề với vùng đất này, bà còn là người yêu Sài Gòn một cách nồng nàn, tha thiết. Bà như một “trung bình cộng” của người Sài Gòn: quê miền Tây, sinh ra ở Hà Nội, sống và gắn bó quá nửa đời người ở Sài Gòn - TP.HCM.
“Khái quát tính cách một cộng đồng là việc rất khó, dễ rơi vào võ đoán. Nhưng nếu buộc phải thử phác thảo tính cách người Sài Gòn – TP.HCM, tôi vẫn nghĩ rằng có thể thảo ra những nét đặc trưng”, bà mở đầu câu chuyện như thế.

Thưa chị, nhiều người vẫn quen nói Sài Gòn là một thành phố trẻ, mới chỉ ba trăm năm. Dưới góc nhìn của một nhà khảo cổ và sử học, chị nhìn vùng đất này như thế nào?
- Nếu chỉ tính theo mốc hành chính, theo những văn bản “chính danh”, Sài Gòn – Gia Định đúng là một đô thị có tuổi đời suýt soát ba trăm năm. Nhưng dưới lớp giấy tờ ấy, vùng đất mà ta đang đứng đã có dấu chân con người từ rất lâu trước đó. Qua những cuộc khai quật khảo cổ ở khu vực Sài Gòn và Nam Bộ, chúng tôi biết rằng nơi này đã có cư dân sinh sống, trao đổi, buôn bán, làm ăn ít nhất từ vài nghìn năm về trước. Không phải đợi đến khi người Việt từ phía Bắc, phía Trung vào, hay đến khi chúa Nguyễn đặt dấu mốc hành chính, vùng đất này mới bắt đầu “có lịch sử”. Nó đã có một quá trình rất dài trước đó, chỉ là chúng ta dễ bỏ qua vì không nhìn thấy bằng mắt thường.

Ngay trong phạm vi thành phố bây giờ, khu vực Cần Giờ là một ví dụ rất rõ. Đối diện bên kia biển là đảo Long Sơn (TP.Vũng Tàu) cùng tạo thành một vùng cảng thị cổ, nơi tàu thuyền qua lại, nơi nhiều nền văn hóa chạm vào nhau, giao thoa. Cư dân sống bám vào những dòng sông, con rạch và hướng ra biển, nên ngay từ đầu, vùng này đã mang sẵn “tính mở”, tính hướng ngoại, tính giao thương.
Khi những lớp cư dân về sau – người Việt, người Hoa, người Khmer, người Chăm… đến đây, họ bước vào một vùng đất đã quen với giao lưu, đã có kinh nghiệm sống cùng nước, cùng gió, cùng những biến động tự nhiên. Điều đó tạo cho họ một tâm thế rất khác: sẵn sàng đi, sẵn sàng ở, sẵn sàng làm lại, và sẵn sàng chấp nhận khác biệt của nhau.
Người ta vẫn hay ví Sài Gòn như một đô thị cảng, dù bây giờ phần cảng đã lùi dần khuất sau những bến bãi, khu công nghiệp, cao ốc văn phòng. Tính “sông nước – hướng biển” ấy còn có ý nghĩa gì khi nhìn vào tính cách con người?
- Người sống ở vùng sông nước thường linh hoạt, phải biết đoán mưa, đoán gió, đoán dòng chảy. Người sống ở vùng cửa biển thì luôn đứng trước ngã ba: ở lại, ra khơi hay đi xa hơn. Những lựa chọn ấy, lặp đi lặp lại qua nhiều đời, tạo nên một kiểu tính cách: không quá sợ thay đổi, không quá nặng nề với quá khứ, sẵn sàng thử cái mới.
Tôi vẫn nghĩ tính phóng khoáng của người Nam Bộ nói chung, người Sài Gòn nói riêng, một phần đến từ địa lý. Nhưng nếu chỉ quy nó cho sông nước, cho hướng biển, thì cũng chưa bao quát bản chất được. Cội rễ sâu xa hơn là những lớp người đã đến đây, đã chọn ở lại. Họ đi khỏi chỗ cũ vì những lý do khác nhau: chiến tranh, đói nghèo, bất công, khát vọng vươn lên… Khi đến một nơi mới, nếu không chấp nhận nhau thì không sống nổi. Và khi phải cùng nhau đối diện với thiên nhiên, với chiến tranh, với biến động, thì buộc phải học cách chia sẻ, học cách nương nhau mà sống.
Nói như vậy, Sài Gòn – TP.HCM ngay từ đầu đã là vùng hội tụ của rất nhiều cộng đồng?
- Đúng vậy. Trước khi người Việt đến, vùng Đông Nam Bộ này đã có các cộng đồng bản địa như người Mạ, Stiêng, Chơ Ro… Sát hơn về phía Nam, trên những vùng đất cao, có người Khmer. Rồi đến thế kỷ XVII, từng đợt người Việt từ miền Trung theo chân chúa Nguyễn vào lập làng, lập ấp. Sau đó là các cộng đồng người Hoa được phép vào lập Minh Hương, dựng phố, dựng chợ, phát triển thương mại.
Về sau nữa, trong những đợt biến động lớn, lại có người Chăm, người Khmer, người gốc Ấn, người từ Campuchia quay về, rồi làn sóng người miền Bắc, miền Trung di cư mạnh sau năm 1954, rồi sau ngày đất nước thống nhất là những lượt đi – đến khác nhau. Mỗi cộng đồng mang theo ký ức, cách sống, tập quán riêng. Nhưng một khi đã chọn ở lại Sài Gòn, họ cùng phải trả lời một câu hỏi rất thực tế: làm sao cùng tồn tại trên một mảnh đất đa văn hoá như vậy.
Tôi vẫn hay nói vui: nếu có một thành phố nào mà từ giọng nói, món ăn, tín ngưỡng đến cách giao tiếp đều đa dạng như một “chợ văn hóa”, thì đó chính là Sài Gòn. Đa dạng nhưng không vỡ vụn. Đa dạng mà vẫn nhận ra nhau.

Có vẻ chị hơi “bênh vực” Sài Gòn khi người ta bảo thành phố này còn “non trẻ”?
- Tôi chỉ muốn nói cho công bằng. Khi so sánh niên đại, chúng ta hay bị ám ảnh bởi những con số. Nếu nơi này có một di tích nghìn năm, mà nơi khác chỉ có vài trăm năm, ta dễ ngầm sắp hạng: ai “già” hơn thì “quý” hơn. Trong khi điều làm nên giá trị của một đô thị không chỉ là số năm, mà là quá trình tích tụ, chồng lớp, những lựa chọn và trả giá.
Sài Gòn có thể không có nhiều tháp cổ, đền chùa nghìn năm, nhưng lại có những trầm tích rất sâu về sự dịch chuyển, về hội tụ, về hòa hợp. Đó là một loại “di sản mềm” nhưng rất bền. Và chính những trầm tích ấy, tôi cho rằng, mới quyết định khí chất người Sài Gòn hôm nay.

Từ những trầm tích ấy, đi đến con người hôm nay. Nếu phải phác thảo tính cách người Sài Gòn – TP.HCM, chị bắt đầu từ đâu?
- Tôi không dám nói mình nắm được “chân dung hoàn chỉnh” của người Sài Gòn. Nhưng từ trải nghiệm sống và quan sát, có vài nét mà tôi thấy lặp lại ở rất nhiều câu chuyện.
Trước hết là sự cởi mở. Cởi mở ở đây không chỉ là “dễ gần, dễ nói chuyện”, mà là khả năng chấp nhận cái khác, cái mới, cái không giống mình. Cái khác có thể khiến họ tò mò, nhưng không lập tức làm họ phòng thủ. Người Sài Gòn có thể nhận xét về một điều gì đó nhưng ít khi phán xét. Đó là hai chuyện rất khác nhau.
Nhận xét là để hiểu, để điều chỉnh, để tìm cách sống cùng. Phán xét thường đi kèm với kết luận và đóng cửa. Sống trong môi trường mà người ta ít phán xét nhau, mình có cơ hội được là chính mình hơn, có cơ hội thử cái mới nhiều hơn, và cũng dễ chấp nhận cái sai của mình hơn.
Chị có thể kể một ví dụ rất đời thường để người đọc “thấy” được cái không khí ấy?
- Tôi hay kể chuyện đi chợ. Những ngày đầu vào Sài Gòn, đi chợ là một bài học văn hóa rất thú vị đối với tôi. Ở nhiều nơi khác, nếu chê hàng, hay mặc cả rồi không mua, đôi khi mình sẽ bị người bán “nói cho vài câu”, cảm giác khá nặng nề. Ở Sài Gòn, chuyện đó nhẹ hẳn. Hôm nào rau không đẹp, mình nói thẳng: “Hôm nay rau hơi héo ha chị”. Người bán thường cười, giải thích lý do. Mình hỏi nhiều, xem kỹ, rồi… không mua, cũng không sao. Họ không cảm thấy bị “xúc phạm” vì bạn không chọn hàng của họ. Họ hiểu đó là quyền của bạn. Những thứ nhỏ nhỏ như vậy tạo nên một bầu không khí: mỗi người có quyền khác, nhưng không vì thế mà bị nhìn bằng ánh mắt nghi ngại. Và khi đã quen với kiểu không khí này, con người ta rất khó chịu đựng những nơi mà mọi khác biệt đều bị soi xét.

Một nét khác mà nhiều người nhắc đến khi nói về Sài Gòn là “nghĩa hiệp”, “chịu chơi”, “dễ giúp người lạ”. Dưới góc nhìn của chị, điều này có đúng không?
- Tôi nghĩ là đúng, chỉ là sự “nghĩa hiệp” ở Sài Gòn không mặc áo choàng, không cần hiệu ứng sân khấu. Nó diễn ra bằng những việc nhỏ, gần như bản năng.
Người Sài Gòn hay dùng chữ “giùm”: mua giùm, chở giùm, coi chừng giùm, giữ đồ giùm, giúp giùm… Từ “giùm” nghe rất bình thường, nhưng đằng sau nó là một thái độ: nếu làm được cho nhau mà không thiệt hại gì lớn, thì cứ làm. Không ai mắc nợ ai, nhưng ai cũng được lợi chút gì đó, ít nhất là một cảm giác ấm áp.
Rồi đến những chuyện lớn hơn, như bắt cướp. Có rất nhiều vụ việc mà người dân lao xe đuổi theo kẻ giật đồ, dù không quen biết nạn nhân. Người ta có thể trách họ liều, nhưng đó là phản xạ của một cộng đồng không chịu nhìn cái xấu ngang nhiên diễn ra trước mắt.
Tôi hay nhìn vào những chi tiết rất nhỏ: bình trà đá miễn phí để trước cửa nhà cho người đi đường; những suất cơm giá rẻ mà người bán chắc chắn không lời nhiều; những tờ vé số được “mua giùm”, một tiếng nhắc nhau “gạt chân chống xe chị ơi”... Nếu cộng những chi tiết đó lại, ta sẽ thấy một thứ “nghĩa hiệp thầm lặng” rất Sài Gòn.
Ở Sài Gòn- TP.HCM, việc hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong làm ăn rất rõ, rất tự nhiên. Đó là lý do khiến nhiều người bảo rằng “Sài Gòn dễ làm ăn”. Chị nghĩ sao về chuyện này?
- Không bất ngờ, nhưng mỗi lần nghe vẫn thấy xúc động. Có bạn kể cho tôi nghe chuyện khai trương cửa hàng. Bạn ấy là người từ nơi khác đến, quan hệ không nhiều, vậy mà ngày mở cửa, bạn bè quen ít, quen nhiều, thậm chí quen… sơ sơ cũng kéo đến đông. Không phải đến để xem cho biết rồi về, mà đến để mua, để ủng hộ, để giúp cửa tiệm có “lộc” đầu ngày. Rồi có lúc bạn ấy lâm vào cảnh khó khăn, một người anh chỉ quen qua vài lần ngồi nhậu sẵn sàng chuyển cho một khoản tiền rất lớn, không giấy tờ, không điều kiện, chỉ với một niềm tin là “rồi nó sẽ xoay được”. Tôi nghe xong, thấy trong câu chuyện đó, vừa có rủi ro, vừa có nghĩa tình. Người cho tiền chấp nhận rủi ro, còn người nhận tiền mang trong lòng một món nợ rất khác – nợ lòng tin.
Điều đáng nói là nghĩa hiệp ấy không phân biệt giàu nghèo. Người giàu giúp theo cách của người giàu; người nghèo giúp theo cách của người nghèo. Quan trọng là người ta nhìn thấy nhau trong lúc yếu đuối, và không quay đi.
Có một điều nữa: Sài Gòn là nơi giọng nói nào cũng có, món ăn vùng miền nào cũng góp mặt. Chị có coi đó là một phần tính cách không?
- Dĩ nhiên. Tôi vẫn bảo, nếu muốn nghe gần như đầy đủ các thứ giọng trên bản đồ Việt Nam, cứ ra đường phố Sài Gòn mà nghe. Không ai bị bắt phải “đổi giọng” để hòa nhập. Anh có thể giữ nguyên tiếng quê mình, mà vẫn tìm được việc, bạn bè, khách hàng. Chỉ riêng việc ấy thôi, đã là một sự tôn trọng khác biệt rất cụ thể.
Ẩm thực cũng vậy. Đặc sản từ Tây Bắc, Đông Bắc, miền Trung, miền Tây… đều hiện diện ở những góc phố nào đó. Người Sài Gòn ăn món của vùng khác như thể ăn món của nhà mình. Họ tò mò, thử, rồi chọn. Và món nào hợp khẩu vị cộng đồng thì ở lại lâu dài. Đó là một hình thức “bình chọn bằng dạ dày”, vừa mềm, vừa công bằng.
Khi một thành phố có khả năng dung chứa cả tiếng nói, món ăn, tín ngưỡng của nhiều vùng, mà không buộc ai phải đánh mất gốc rễ của mình, thì chính thành phố ấy cũng giàu lên, sâu hơn lên.

Trong cuộc trò chuyện này, nếu không nhắc đến Covid thì sẽ thiếu. Theo chị, đại dịch đã bộc lộ điều gì sâu nhất trong con người Sài Gòn – TP.HCM?
- Covid là một vết cắt mà có lẽ cả đời chúng ta không quên được. Những tháng ngày ấy, thành phố mà mình quen với tiếng xe, tiếng người, bỗng trở nên im lặng đáng sợ. Im lặng nhưng không bình yên. Đằng sau là tiếng xe cấp cứu, tiếng loa phường, tiếng khóc của những gia đình mất người thân. Tôi nghĩ đó là lúc mà cái gọi là “cộng đồng” không còn là một khái niệm trừu tượng nữa. Người ta không chỉ nói “gia đình tôi”, “nhà tôi”, mà nói “khu phố mình”, “thành phố mình”. Cảm giác đau không chỉ thuộc về từng nhà, mà là nỗi đau chung.
Và cũng chính trong hoàn cảnh đó, lòng tốt của người Sài Gòn hiện lên rõ nhất. Hễ nơi nào có khó, nơi đó có người tìm đến. Từ những đoàn xe chở rau củ, thực phẩm, đến những bếp ăn miễn phí, những nhóm tình nguyện chạy liên tục. Đến bây giờ, nghĩ về quãng thời gian “thành phố mình chống dịch”, tôi vẫn không kìm được nước mắt và tôi lại muốn thốt lên: “người dân thành phố mình tốt quá”, thực sự không có gì để phàn nàn về người dân ở thời điểm đó.
Cá nhân tôi thấy, người Sài Gòn đã giữ cho thành phố sống và sau đó gượng dậy được bằng lòng tử tế của chính mình.
Tôi vẫn hay nói câu đó trong các cuộc trao đổi với cơ quan chức năng. Bởi nếu không có sự chủ động, sự đùm bọc lẫn nhau của dân, nhà nước dù cố gắng đến đâu cũng không thể ứng phó được, giải quyết hết những khó khăn trong đại dịch đó.
Nhưng bên cạnh sức mạnh cộng đồng, dịch bệnh cũng làm lộ ra nhiều bất cập trong quản lý. Ở góc độ một người quan sát, chị nhìn nhận điều này thế nào?
- Tôi nghĩ chúng ta phải nhìn thẳng. Có những thời điểm, cách quản lý còn quá cứng nhắc, mang tính áp lệnh nhiều hơn là lắng nghe. Việc ngăn sông cấm chợ, việc siết quá chặt các hoạt động mưu sinh trong thời điểm đỉnh dịch Covid đã đẩy nhiều người thành phố vào cảnh rất khó khăn.
Nhiều chuyên gia đã lên tiếng, nhiều tín hiệu cảnh báo đã được đưa ra, nhưng phản ứng của hệ thống chưa kịp thời! Một phần là vì tình huống mới, chưa có tiền lệ, một phần là vì chúng ta đã quen suy nghĩ theo lối “an toàn nhất là siết chặt”, mà quên rằng một thành phố sống được là nhờ những mạch máu kinh tế, dịch vụ, buôn bán nhỏ luôn vận hành. Và chúng ta đã bỏ qua lợi thế lớn của Sài Gòn-TP.HCM trong chống dịch: tính linh hoạt. Khó có TP nào có tính linh hoạt cao bằng TP.HCM. Tôi vẫn nghĩ, nếu sau này có một công trình tưởng niệm về Covid, đó không chỉ là nơi nhắc nhớ nỗi đau, mà còn là một hình thức nói lời xin lỗi với những người đã chịu nhiều mất mát, và một lời cảm ơn với những người đã hy sinh cho thành phố.
Rời khỏi Covid, trở lại câu chuyện di sản. Từ lâu, chị gắn liền với các tranh luận về việc bảo tồn hay phá bỏ một số công trình cũ. Có vẻ như ở Sài Gòn, chuyện này lúc nào cũng nóng?
- Sài Gòn có một nghịch lý: là thành phố phát triển nhanh, nhưng lại khá thiếu những công trình văn hóa mới xứng tầm. Trong khi đó, nhiều di sản cũ – từ nhà hát, rạp hát, đến các dãy nhà phố cổ, các hàng cây lâu năm – lại luôn trong tình trạng “bị nhòm ngó” bởi các dự án mới.
Tôi không cực đoan cho rằng phải giữ nguyên tất cả. Một đô thị muốn phát triển thì không thể không xây mới. Nhưng điều quan trọng là cách chúng ta chọn cái gì để giữ, cái gì để thay, và thay bằng gì. Nếu cái mới chỉ dừng lại ở những khối bê tông giống nhau, không mang hơi thở của đất và người nơi đây, thì nó sẽ rất nhanh trở nên vô nghĩa.
Có những khoảnh khắc làm tôi nhớ mãi. Chẳng hạn khi thành phố làm một cây cầu mới, buộc phải chặt những hàng cây cổ thụ ở đường Tôn Đức Thắng. Nhiều bạn trẻ đã ra ôm cây, đặt vòng hoa, viết lời tạm biệt cho cây. Có người cho đó là “lãng mạn thái quá”, nhưng tôi thấy đó là một phản ứng rất nhân văn. Nó cho thấy họ hiểu giá trị của cây xanh, của ký ức đô thị, và họ muốn nói với nhà quản lý: “Xin hãy cân nhắc kỹ hơn mỗi lần chạm vào di sản”. Những hành động như vậy, nếu nhìn từ góc độ phát triển, sẽ giúp thành phố không bị trôi đi quá xa khỏi gốc rễ.

Gần đây, quyết định giữ lại một số khu “đất vàng” để làm công trình văn hóa, công viên, thay vì chỉ xây trung tâm thương mại, chung cư cao cấp, được dư luận đánh giá tích cực. Với chị, đó là tín hiệu gì?
- Với tôi, trước hết đó là một tin vui. Nếu nơi đó trở thành công viên, bảo tàng, không gian văn hóa, chúng ta có thể đi qua đó nhiều lần trong đời, có thể dẫn con cháu đến đó, có thể coi đó là một phần ký ức của mình. Ở một tầng sâu hơn, đó là dấu hiệu cho thấy thành phố bắt đầu cân đối lại: không phải lợi ích của một nhóm nhỏ lúc nào cũng được ưu tiên tuyệt đối, mà lợi ích của cộng đồng, của đời sống tinh thần, cũng đang được đặt lên bàn cân.
Một đô thị văn minh không thể chỉ tự hào vì số lượng trung tâm mua sắm, mà còn phải tự hào vì có những nơi mà người dân bình thường có thể đến để học, để chơi, để suy nghĩ về quá khứ và tương lai.
Trong bối cảnh đó, vai trò của người lãnh đạo đô thị này là gì? Có câu dân gian “dân nào quan đó”, nghe thì cũ, nhưng khi đặt vào Sài Gòn – TP.HCM, chị thấy có đúng không?
- Tôi nghĩ câu đó vẫn còn nguyên giá trị. Lãnh đạo một vùng đất mà không hiểu lịch sử, không cảm được khí chất của người dân vùng đó, sẽ rất khó đưa ra những quyết định phù hợp. Sài Gòn là thành phố của di dân, của đổi mới, của thử nghiệm. Cư dân ở đây quen với việc “làm trước, nói sau”, quen tự tìm đường trong điều kiện ít ai dạy mình phải làm gì. Nếu người lãnh đạo hiểu điều đó, họ sẽ biết cách tạo không gian để năng lượng ấy bung ra, nhưng vẫn đúng hướng phát triển. Nếu người lãnh đạo sợ cái mới, sợ sự khác biệt, sợ phải chịu trách nhiệm cho những thử nghiệm, thì thành phố này sẽ rất khó bứt phá, sẽ chỉ mãi “quẩn quanh trong tổ”...
Muốn thành phố này phát triển đúng với tiềm năng của nó, người lãnh đạo phải tôn trọng và tin vào tính cách Sài Gòn, chứ không thể đi ngược lại.
Tôi tin rằng một thành phố mà cư dân có sẵn tính năng động, nghĩa hiệp, sẵn sàng chia sẻ như Sài Gòn, nếu gặp được một lớp lãnh đạo dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, thì sẽ còn tạo ra nhiều kỳ tích nữa.

Thưa chị, có một thời gian dài Sài Gòn – TP.HCM mang tiếng là đô thị nhiều cướp giật, phức tạp về an ninh. Nhưng vài năm trở lại đây, rất nhiều người – cả người dân lẫn du khách – đều nói thành phố đã an toàn hơn hẳn. Chị nhìn nhận sự thay đổi này như thế nào?
- Đúng là có một giai đoạn, Sài Gòn bị gắn với hình ảnh có nguy cơ bị cướp giật cao. Chủ yếu, đây là thành phố mở, dân nhập cư đông, biến động lớn, khiến công tác quản lý gặp nhiều thách thức. Nhưng vài năm gần đây, tình hình an ninh – trật tự đã thay đổi rất rõ. Điều này không chỉ do nỗ lực tuyệt vời của lực lượng công an mà còn do chính cộng đồng cư dân đã trưởng thành hơn về ý thức.
Người dân Sài Gòn bây giờ rất chủ động tham gia giữ gìn an ninh. Gặp cướp là có người đuổi theo, có người hỗ trợ báo tin, có người đứng ra chặn đường. Đó không phải hành động bộc phát, mà là một dạng “phản xạ tập thể” đã hình thành từ lâu. Bên cạnh đó, các biện pháp kỹ thuật, tuần tra, giám sát hiệu quả hơn, khiến tội phạm khó ẩn mình như trước.
Một yếu tố quan trọng nữa là sự bình ổn về đời sống. Khi thành phố quan tâm đến chỗ ở, sinh kế, không gian công cộng và phúc lợi xã hội. Nếu chính quyền đô thị chăm lo cho dân cư được ba chữ “an”: an cư, an toàn, an tâm – thì tình trạng tội phạm tự nhiên giảm.
Theo chị, thế hệ chúng ta đang sống hôm nay cần gìn giữ và để lại cho thế hệ mai sau những di sản gì?
- Tôi nghĩ có hai việc phải làm song song. Thứ nhất là giữ lại bằng mọi giá những giá trị đang có: các công trình kiến trúc, không gian văn hóa, ký ức đô thị, nghệ thuật như cải lương – vốn là linh hồn của đô thị Nam Bộ, cùng những thói quen tử tế đã định hình nên khí chất người Sài Gòn. Nếu chỉ một thế hệ lơi tay, những giá trị ấy có thể mất đi vĩnh viễn.
Thứ hai là tạo thêm di sản mới: những công trình văn hóa – nghệ thuật xứng tầm, những không gian công cộng tử tế, những mô hình sáng tạo của cộng đồng, và cả cách chúng ta đối diện với thử thách như Covid. Di sản không chỉ là thứ cha ông để lại; nó còn phải là thứ chúng ta chủ động tạo ra và trao truyền cho con cháu.

Với tất cả những gì chị đã sống, đã thấy và đã nghiên cứu, nếu một người ở xa hỏi: “Người Sài Gòn – TP.HCM là người như thế nào?”, chị sẽ trả lời ra sao?
- Có lẽ tôi sẽ không trả lời bằng một định nghĩa, mà bằng một mong muốn. Tôi mong, mỗi ai đã từng đến đây, dù chỉ một lần, đều mang về một ký ức liên quan đến sự tử tế.
Đó có thể là một bữa cơm nóng bất ngờ trong ngày mưa, một người chỉ đường tận tình giữa ngã ba xa lạ, một tiếng “chị, anh” rất gần dành cho người mới gặp lần đầu, một quán ăn nhỏ mà chủ quán sẵn sàng gói phần mang về cho người không đủ tiền, một quán cơm giá rẻ mà người bán vẫn cố nêm thêm chút ngon.
Nếu những ký ức ấy đủ nhiều, chúng sẽ tự trở thành định nghĩa. Và có lẽ, không cần dùng nhiều chữ, người ta cũng sẽ hiểu vì sao những người đã lỡ thương Sài Gòn lại khó mà dứt ra khỏi nó.
Có lẽ, tình yêu với một thành phố cũng giống như tình yêu với một con người. Ban đầu, ta bị hấp dẫn bởi sự náo nhiệt, bởi những thứ hiện đại. Nhưng nếu ở lại đủ lâu, điều giữ ta lại chính là những chi tiết nhỏ, những cử chỉ tử tế, những lần thành phố không bỏ rơi ta trong hoạn nạn.
Phác thảo tính cách người Sài Gòn – TP.HCM là việc khó, có lẽ khó đến mức chẳng ai dám nói mình đã làm xong. Nhưng chỉ cần nhìn vào những lớp người đã đến, đã ở, đã đi qua và đã để lại nghĩa tình nơi đây, ta có thể tạm nói: Đó là những con người cởi mở, không vội phán xét, hào sảng, nghĩa hiệp, dễ tha thứ và rất giàu năng lượng sống.
Và trong một thế giới nhiều bất an, chỉ riêng việc vẫn còn một thành phố như thế để nghĩ về, để nhớ, để tự hào đã là một may mắn rồi.
Cảm ơn chị về cuộc trò chuyện!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét